Wiki - KEONHACAI COPA

Ana Ivanović

Ana Ivanović
Ana Ivanovic tại Pháp Mở rộng 2013
Quốc tịch Serbia
Nơi cư trúBasel, Thụy Sĩ
Sinh6 tháng 11, 1987 (36 tuổi)
Beograd, Serbia, trước là Nam Tư
Chiều cao1,84m[1][2]
Lên chuyên nghiệp17 tháng 8 năm 2003
Giải nghệ28 tháng 12 năm 2016
Tay thuậnTay phải; Revers hai tay
Tiền thưởngUS$ 15.510.787
Trang chủWebsite chính thức
Đánh đơn
Thắng/Thua480-225 (68.09%)
Số danh hiệu15
Thứ hạng cao nhất1 (9.6.2008)
Thành tích đánh đơn Gland Slam
Úc Mở rộngChung kết (2008)
Pháp mở rộngVô địch (2008)
WimbledonBán kết (2007)
Mỹ Mở rộngTứ kết (2012)
Đánh đôi
Thắng/Thua30-35
Số danh hiệu0
Thứ hạng cao nhất50 (25 tháng 9 năm 2006)
Cập nhật lần cuối: 2 tháng 1 năm 2017.

Ana Ivanović (Ана Ивановић, phát âm: [ˈanå iˈvaːnɔviʨ][3][4], nghe sinh ngày 6 tháng 11 năm 1987 tại Beograd) là một cựu vận động viên quần vợt chuyên nghiệp của Serbia. Cô từng xếp thứ 1 thế giới năm 2008.

Bắt đầu thi đấu chuyên nghiệp từ năm 2003, Ivanovic đã giành được 15 danh hiệu vô địch WTA Tour đánh đơn, trong đó có một danh hiệu Grand Slam nội dung đơn nữ. Tháng 6 năm 2011, cô được tạp chí Time bình chọn là một trong 30 huyền thoại quần vợt nữ[5] và nằm trong danh sách 100 tay vợt xuất sắc nhất từ trước tới nay bởi Matthew Cronin.[6]

Cô tuyên bố giải nghệ vào ngày 28 tháng 12 năm 2016.

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Ana Ivanovic tại Medibank International 2008

Ivanovic bắt đầu làm quen với cây vợt lúc 5 tuổi khi xem tay vợt đồng hương Monica Seles thi đấu trên truyền hình.[2] Cô bắt đầu sự nghiệp của mình sau khi biết được số điện thoại của một cơ sở đào tạo quần vợt từ một quảng cáo. Trong các vụ đánh bom của NATO vào Nam Tư, cô tập luyện trong buổi sáng để tránh các cuộc không kích. Cô được đào tạo trong một bể bơi bị bỏ rơi trong mùa đông vì các sân quần vợt không có sẵn.

2003 - 2005[sửa | sửa mã nguồn]

Ivanovic bắt đầu thi đấu chuyên nghiệp từ tháng 8 năm 2003. Năm 2004, cô lọt vào chung kết giải đấu Junior Wimbledon và để thua Kateryna Bondarenko.[7] Cô lần đầu giành được danh hiệu vô địch vào đầu năm 2005 tại giải Canberra International, sau khi đánh bại Melinda Czink trong trận chung kết. Thứ hạng của cô tiếp tục tăng sau khi giành chiến thắng trước Svetlana Kuznetsova, Nadia Petrova ở Miami, và Vera Zvonareva ở Warsaw, tất cả họ đều là các tay vợt trong top 10. Tại giải Úc mở rộng 2005, cô lọt được vào vòng 3 và để thua Amélie Mauresmo. Sau đó tại giải Pháp mở rộng cô vào đến vòng tứ kết.[8] Ivanovic kết thúc năm 2005 với hạng thứ 16.

2006 - 2008[sửa | sửa mã nguồn]

Ivanovic khởi đầu năm 2006 tại giải đấu Hopman Cup ở Perth, Australia với tay vợt đồng hương Novak Djokovic, họ vào đến trận chung kết nhưng đã để thua sau đó.[9] Bước đột phá trong năm 2006 của cô là việc đánh bại cựu số 1 thế giới Martina Hingis trong trận chung kết Rogers Cup ở Montreal trước khi đánh bại các tay vợt Jelena Jankovic, Katarina SrebotnikDinara Safina. Tại giải Mỹ mở rộng, cô đã để thua Serena Williams tại vòng 3.

Năm 2007, Ivanovic lần đầu lọt vào chung kết một Grand Slam sau khi đánh bại KuznetsovaSharapova tại tứ kết và bán kết, tuy nhiên cô đã thất bại trước Justine Henin trong trận chung kết. Trong năm này, cô giành được 3 danh hiệu vô địch WTA và leo lên vị trí thứ 4 vào cuối năm.

Năm 2008, Cô đã đánh bại Dinara Safina để giành chiến thắng tại trận chung kết Giải quần vợt Pháp Mở rộng và là á quân tại Giải quần vợt Úc Mở rộng.[10] Với chiến thắng này cô đã vươn lên vị trí số 1 thế giới. Tuy nhiên tại giải Wimbledon tiếp đó cô đã sớm thất bại từ vòng 3 khi đang là hạt giống số 1. Sau đó chấn thương ngón tay kéo dài khiến cô buộc phải rút lui tại thế vận hội mùa hè Bắc Kinh.[11]

Sau khi vô địch tại giải Pháp mở rộng năm 2008 và trở thành tay vợt nữ số 1 thế giới, Ivanovic đã có một quãng thời gian dài liên tục sa sút.[12]

2009 - 2013[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2009, lần đầu tiên Ivanovic bị tụt khỏi top 20 kể từ tháng 7 năm 2005. Cô kết thúc năm với số trận thắng - thua là 24 - 14, tồi tệ nhất kể từ lúc thi đấu chuyên nghiệp. Trong năm 2010, đã có lúc cô bị tụt xuống hạng 64 trong bảng xếp hạng (tháng 7 năm 2010) sau khi để bị thua ngay từ vòng đầu tiên của giải Wimbledon.[13][14]

2014 - nay[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2014 là một năm hồi sinh sự nghiệp của Ivanovic, bắt đầu với chiến thắng tại giải Auckland mở rộng, danh hiệu đánh đơn đầu tiên của cô trong hơn 2 năm, sau đó là các chiến thắng tại các giải Monterrey mở rộng, Aegon Classic và Pan Pacific mở rộng. Ivanovic kết thúc năm 2014 với xếp hạng thứ 5.[15]

Cuộc sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Ivanovic tại Toray Pan Pacific Open năm 2014

Ana được sinh ra tại Belgrade, Nam Tư, nay là Serbia. Mẹ cô, Dragana là một luật sư và thường có mặt trong tất cả các trận đấu của cô. Cha cô, Miroslav là một thương nhân, cũng thường tham dự các trận đấu của cô nếu có thể. Ana có một cậu em trai, Miloš thường cùng chơi bóng rổ với cô.[16]

Bên cạnh sự nghiệp quần vợt, Ana cũng đang là sinh viên ngành tài chính của trường đại học ở Belgrade và cô còn học thêm tiếng Tây Ban Nha trong thời gian rảnh.[17] Người đã truyền cảm hứng cho cô khi mới vào sự nghiệp là tay vợt đồng hương Monica Seles, một tay vợt nổi tiếng thập niên 1990.

Ana từng đánh đôi với Maria Kirilenko, là bạn của cô. Ngoài ra cô cũng còn nhiều người bạn cũng nổi tiếng trong giới Tennis như Daniela Hantuchova, Svetlana Kuznetsova, Sanja Ancic, Rafael Nadal, Tatiana Golovin và tay vợt đồng hương Novak Djokovic (quen nhau khi 5 tuổi).

Ngày 8 tháng 9 năm 2007, Ivanovic trở thành đại sứ UNICEF cho Serbia, cùng với Aleksandar Djordjevic, Jelena Jankovic và Emir Kusturica.[18]

Cô cũng từng xuất hiện trên một số tạp chí quốc tế như FHM (Đức, Anh, Úc), Vanity Fair (Tây Ban Nha), Cosmopolitan (Serbia), Vanidades (Mexico), Grazia (Serbia), The Best Shop (Serbia), Sports Illustrated (Nam Phi),...

Năm 2013, Ivanovic cặp bồ một thời gian ngắn với cầu thủ bóng rổ Serbia Ivan Paunić.[19] Trước đó cô đã chia tay với cầu thủ đánh Golf Adam Scott sau 2 năm chung sống.[20] Tháng 9, 2014 người ta đã gặp cô nắm tay với thủ quân của Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức Bastian Schweinsteiger ở New York và sau đó ở nhiều nơi khác.[21]

Các trận đấu tại giải Grand Slam[sửa | sửa mã nguồn]

Chung kết: 3 (1 vô địch, 2 á quân)[sửa | sửa mã nguồn]

Kết quảNămGiải đấuMặt sânĐối thủTỷ số
Á quân2007French OpenĐất nệnBỉ Justine Henin1–6, 2–6
Á quân2008Australian OpenCứngNga Maria Sharapova5–7, 3–6
Vô địch2008French OpenĐất nệnNga Dinara Safina6–4, 6–3

Để tránh việc nhầm lẫn do sự trùng lặp khi đếm, bảng tổng kết chỉ được cập nhật khi một giải đấu đã hoàn toàn kết thúc. Lần cuối cùng cập nhật là cuối năm 2014

W = vô địch

F = á quân

SF = bán kết

QF = tứ kết

1R, 2R, 3R, 4R = vòng 1, vòng 2, vòng 3, vòng 4

Nội dung đánh đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Năm2003200420052006200720082009201020112012201320142015 SR W–L
Grand Slam Tournaments
Australian Open3R2R3RF3R2R1R4R4RQF0 / 1024–10
French OpenQF3RFW4R2R1R3R4R3R1 / 1030–9
Wimbledon3R4RSF3R4R1R3R4R2R3R0 / 1023–10
US OpenQ12R3R4R2R1R4R4RQF4R2R0 / 1020–10
Thắng–Thua0–00–09–48–416–416–38–45–45–412–410–49–41 / 4097–39
Year-End Championship
WTA Tour ChampionshipsSFRRRR0 / 34–5
Thống kê sự nghiệp
Vô địch - Á quân0–00–01–11–13–53–40–12–21–10–00–14–6N/A15–22
Thắng-Thua tổng thể12–537–540–1435–1851–1838–1524–1433–2032–2037–2140–2358–17N/A437–190
Thứ hạng cuối năm7059716144522172213165

Nội dung đánh đôi[sửa | sửa mã nguồn]

Năm2005200620072011SRW–L
Grand Slam Tournaments
Australian Open0 / 00–0
French Open1R1R0 / 20–2
Wimbledon3R1R1R2R0 / 43–4
US Open3R0 / 12–1
Thắng-Thua2–22–20–21–14 / 74–7

Các trận chung kết WTA[sửa | sửa mã nguồn]

Nội dung đánh đơn: 23 (15 vô địch, 8 á quân)[sửa | sửa mã nguồn]

Kết quảSTTNgàyGiải đấuMặt sânĐối thủ tại chung kếtTỷ số
Winner1.15 tháng 1 năm 2005Canberra International, Canberra, AustraliaHardHungary Melinda Czink7–5, 6–1
Winner2.21 tháng 8 năm 2006Canadian Open, Montréal, CanadaHardThụy Sĩ Martina Hingis6–2, 6–3
Runner-up1.4 tháng 2 năm 2007Pan Pacific Open, Tokyo, JapanCarpet (i)Thụy Sĩ Martina Hingis4–6, 2–6
Winner3.13 tháng 5 năm 2007German Open, Berlin, GermanyClayNga Svetlana Kuznetsova3–6, 6–4, 7–6(7–4)
Runner-up2.9 tháng 6 năm 2007French Open, Paris, FranceClayBỉ Justine Henin1–6, 2–6
Winner4.12 tháng 8 năm 2007LA Women's Tennis Championships, Los Angeles, USAHardNga Nadia Petrova7–5, 6–4
Winner5.30 tháng 9 năm 2007Luxembourg Open, LuxembourgHard (i)Slovakia Daniela Hantuchová3–6, 6–4, 6–4
Runner-up3.26 tháng 1 năm 2008Australian Open, Melbourne, AustraliaHardNga Maria Sharapova5–7, 3–6
Winner6.23 tháng 3 năm 2008Indian Wells Masters, Indian Wells, United StatesHardNga Svetlana Kuznetsova6–4, 6–3
Winner7.7 tháng 6 năm 2008French Open, Paris, FranceClayNga Dinara Safina6–4, 6–3
Winner8.26 tháng 10 năm 2008Linz Open, Linz, AustriaHard (i)Nga Vera Zvonareva6–2, 6–1
Runner-up4.22 tháng 3 năm 2009Indian Wells Masters, Indian Wells, United StatesHardNga Vera Zvonareva6–7(5–7), 2–6
Winner9.17 tháng 10 năm 2010Linz Open, Linz, Austria (2)Hard (i)Thụy Sĩ Patty Schnyder6–1, 6–2
Winner10.7 tháng 11 năm 2010WTA Tournament of Champions, Bali, IndonesiaHard (i)Nga Alisa Kleybanova6–2, 7–6(7–5)
Winner11.6 tháng 11 năm 2011WTA Tournament of Champions, Bali, Indonesia (2)Hard (i)Tây Ban Nha Anabel Medina Garrigues6–3, 6–0
Runner-up5.13 tháng 10 năm 2013Linz Open, Linz, AustriaHard (i)Đức Angelique Kerber4–6, 6–7(6–8)
Winner12.4 tháng 1 năm 2014Auckland Open, Auckland, New ZealandHardHoa Kỳ Venus Williams6–2, 5–7, 6–4
Winner13.6 tháng 4 năm 2014Monterrey Open, Monterrey, MexicoHardSerbia Jovana Jakšić6–2, 6–1
Runner-up6.27 tháng 4 năm 2014Stuttgart Open, Stuttgart, GermanyClay (i)Nga Maria Sharapova6–3, 4–6, 1–6
Winner14.15 tháng 6 năm 2014Aegon Classic, Birmingham, United KingdomGrassCộng hòa Séc Barbora Záhlavová-Strýcová6–3, 6–2
Runner-up7.17 tháng 8 năm 2014Cincinnati Masters, Cincinnati, United StatesHardHoa Kỳ Serena Williams4–6, 1–6
Winner15.21 tháng 9 năm 2014Pan Pacific Open, Tokyo, JapanHardĐan Mạch Caroline Wozniacki6–2, 7–6(7–2)
Runner-up8.10 tháng 1 năm 2015Brisbane International, Brisbane, AustraliaHardNga Maria Sharapova7–6(7–4), 3–6, 3–6

Nội dung đánh đôi: 1 (Á quân)[sửa | sửa mã nguồn]

Kết quảSTTNgàyGiải đấuMặt sânĐồng độiĐối thủTỷ số
Runner-up1.19 tháng 6 năm 2006Rosmalen Grass Court Championships, 's-Hertogenbosch, NetherlandsGrassNga Maria KirilenkoTrung Quốc Yan Zi
Trung Quốc Zheng Jie
6–3, 2–6, 2–6

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Bio on Official Website”. Anaivanovic.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2012.
  2. ^ a b “WTA profile”. Wtatennis.com. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2012.
  3. ^ Ana Ivanović vesti.rs 23 April 2012
  4. ^ John Grasso Historical Dictionary of Tennis 2011 Page 225
  5. ^ William Lee Adams (ngày 9 tháng 5 năm 2013). “30 Legends of Women's Tennis: Past, Present and Future – Ana Ivanovic”. Time. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2011.[liên kết hỏng]
  6. ^ “Matt Cronin's Top 100 Greatest Players Ever”. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2012.
  7. ^ “Wimbledon 2004”. Tennis Europe. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
  8. ^ “Serbian starlet shocks Mauresmo”. BBC News. ngày 28 tháng 5 năm 2005. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2012.
  9. ^ “Hyundai Hopman Cup (Official Mixed Teams Competition of the International Tennis Federation):: News Item”. Hopmancup.com. ngày 5 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
  10. ^ “Sharapova stuns Serb in Aussie final”. CNN. ngày 26 tháng 1 năm 2008. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2008.
  11. ^ “Injured Ivanovic out of Olympics”. BBC Sport. ngày 10 tháng 8 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2008.
  12. ^ Perrotta, Tom (ngày 11 tháng 8 năm 2010). “High Strung”. The Atlantic. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2014.
  13. ^ Ana Ivanovic – Heading Back to the Top? DW on Sport
  14. ^ Where Did It All Go Wrong: The Sad Demise of Ana Ivanovic DW on Sport
  15. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2015.
  16. ^ “Ana Ivanovic – the fastest mover in the world” (PDF). Ana Ivanovic.com. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2007.
  17. ^ Newman, Paul (ngày 25 tháng 1 năm 2008). “Ivanovic grows into role of Australia's adopted daughter”. The Independent. London. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2012.
  18. ^ “Ivanovic Becomes UNICEF Ambassador”. WTA Tour. ngày 8 tháng 9 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2007.
  19. ^ Ivan Paunić očajan: Ana me je pozvala i samo rekla „Ovo je kraj“!.
  20. ^ “Star sporting duo Adam Scott and Ana Ivanovic split ahead of Aussie tour”. NewsComAu. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 11 năm 2013. Truy cập 9 tháng 3 năm 2015.
  21. ^ Was ist da los, Herr Kapitän?, SZ, 11.09.2014

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Ana_Ivanovi%C4%87