Wiki - KEONHACAI COPA

Wikipedia:Dự án/Bóng đá tại Wikipedia tiếng Việt/Đội tuyển bóng đá quốc gia (mẫu bài viết)

Trang này là một phần của Dự án Bóng đá tại Wikipedia tiếng Việt. Đây là một sườn bài viết về các đội tuyển bóng đá quốc gia thường được Dự án sử dụng. Nó giúp các thành viện có một gợi ý khi viết và sửa bài về mục từ này. Nên lưu ý, nội dung sau đây chỉ mang tính tham khảo.
Tên đội tuyển
Huy hiệu áo/huy hiệu Hiệp hội
Biệt danhBiệt danh của đội tuyển
(VD: Brasil=Seleção)
Hiệp hộiLiên đoàn bóng đá quản ký
(VD: Anh = Football Association)
Liên đoàn châu lụcLiên đoàn bóng đá châu lục trực thuộc
(VD: CAF (châu Phi)
Huấn luyện viên trưởngTên HLV trưởng
Đội trưởngTên đội trưởng đương nhiệm
Thi đấu nhiều nhấtTên cầu thủ khoác áo nhiều lần nhất (số lần)
Ghi bàn nhiều nhấtTên cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất (số bàn thắng)
Sân nhàSân vận động thường xuyên chọn làm sân nhà
(VD: Việt Nam = Sân Mỹ Đình)
Mã FIFAKý hiệu FIFA (VD: Việt Nam=VIE)
Áo màu chính
Áo màu phụ
Hạng FIFA
Hiện tạiThứ hạng FIFA
Cao nhấtThứ hạng FIFA cao nhất từng dành được
(Tháng đạt thứ hạng FIFA cao nhất)
Thấp nhấtThứ hạng FIFA thấp nhất từng dành được
(Tháng đạt thứ hạng FIFA thấp nhất)
Hạng Elo
Hiện tạiThứ hạng Elo
Cao nhấtThứ hạng Elo cao nhất từng dành được
(Tháng đạt thứ hạng Elo cao nhất)
Thấp nhấtThứ hạng Elo thấp nhất từng dành được
(Tháng đạt thứ hạng Elo thấp nhất)
Trận quốc tế đầu tiên
Trận đấu quốc tế đầu tiên
Trận thắng đậm nhất
Trận thắng đậm nhất
Trận thua đậm nhất
Trận thua đậm nhất
Giải thế giới
Sồ lần tham dựSố lần tham dự VCK World Cup
(Lần đầu vào năm Năm đầu tiên tham dự VCK World Cup)
Kết quả tốt nhấtThành tích tốt nhất tại VCK World Cup
Tên cúp cấp châu lục
(VD: Cúp bóng đá châu Phi)
Sồ lần tham dựSố lần tham dự VCK cúp châu lục
(Lần đầu vào năm Năm đầu tiên tham dự VCK cúp châu lục)
Kết quả tốt nhấtThành tích tốt nhất tại VCK cúp châu lục
Cúp Liên đoàn các châu lục
Sồ lần tham dựSố lần tham dự Cúp Confederations
(Lần đầu vào năm Năm đầu tiên tham dự Cúp Confederations)
Kết quả tốt nhấtThành tích tốt nhất tại Cúp Confederations)
Giới thiệu sơ lược về đội bóng

Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ, gọi tắt là "Nati", là đội tuyển của Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ và đại diện cho Thụy Sĩ trên bình diện quốc tế. Huấn luyện viên của đội từ tháng 6 năm 2001 là ông Jakob "Köbi" Kuhn.

Trận thi đấu quốc tế đầu tiên của đội tuyển Thụy Sĩ là trận gặp đội tuyển Pháp vào năm 1905. Thành tích lớn nhất của đội cho đến nay là Huy chương bạc tại Thế vận hội mùa hè 1924.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Giới thiệu về lịch sử đội bóng

Thụy Sĩ là quốc gia tiên phong trong bóng đá[sửa | sửa mã nguồn]

Thụy Sĩ là nước thứ nhì sau Liên hiệp Anh tổ chức thi đấu bóng đá. Năm 1860 sinh viên Anh đã thành lập Lausane Football and Cricket Club, có nhiều khả năng là câu lạc bộ bóng đá đầu tiên trên châu Âu lục địa. Câu lạc bộ bóng đá Thụy Sĩ lâu đời nhất vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, FC St.Gallen, được thành lập năm 1879. Năm 1895, 11 câu lạc bộ cùng thành lập Hiệp hội bóng đá Thụy Sĩ (Schweizerische Football-Association). Trong thời gian đầu, 4 trong số 5 thành viên lãnh đạo là người Anh. Hiệp hội bóng đá Thụy Sĩ là một trong số 7 thành viên thành lập FIFA năm 1904. Năm 1913 hội đổi tên thành Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ (Schweizerischer Fussballverband – SFV). Liên đoàn đổi tên sang tiếng Đức nhằm truyền bá bóng đá rộng rãi trong quần chúng và ngoài ra qua đó cũng hy vọng là sẽ đạt đến thể chế của một tổ chức được hỗ trợ về mặt tài chính từ phía quốc gia, việc mà mãi đến những năm của thập niên 1920 mới thành công.

Bóng đá lan rộng khắp châu Âu chủ yếu là từ Thụy Sĩ, nơi mà cựu sinh viên của các trường đại học danh tiếng đã làm quen với bóng đá trong thời gian học tập tại Thụy Sĩ và sau đó mang hình thức thể thao này về phổ biến tại quê nhà. Thuộc vào trong số đó là người Đức Walther Bensemann, thành lập câu lạc bộ bóng đá đầu tiên tại miền nam nước Đức cũng như là hai anh em Michele và Paolo Scarfoglio, đã thành lập câu lạc bộ bóng đá đầu tiên tại Napoli. Vittorio Pozzo cũng làm quen với bóng đá tại Thụy Sĩ và là người đã có nhiều công lao trong việc phổ biến rộng rãi bóng đá tại Ý. Người Thụy Sĩ cũng mang bóng đá ra nước ngoài: Nhà giáo thể dục Georges de Rebius đưa bóng đá vào Bulgary[1], Hans Gamper thành lập F.C. Barcelona năm 1899, đa số các thành viên thành lập Inter Milan là người Thụy Sĩ. Đội bóng Stade Helvétique Marseill với cầu thủ hầu hết là người Thụy Sĩ đã thắng giải vô địch của liên đoàn lớn nhất Pháp USFSA năm 1909, 19111913.

Những năm đầu của đội tuyển quốc gia[sửa | sửa mã nguồn]

Bắt đầu từ giữa thập niên 1890 đã có nhiều trận thi đấu quốc tế, ban đầu là trên bình diện câu lạc bộ với các đội bóng từ các nước lân cận. Vào ngày 4 tháng 12 năm 1898 một đội bóng bao gồm cầu thủ được chọn lựa từ các câu lạc bộ bóng đá Thụy Sĩ đã thi đấu lần đầu tiên; đội tuyển nam Đức đã thua với tỉ số 3:2. Đội hình bao gồm phân nửa là người nước ngoài sống tại Thụy Sĩ, phần nhiều là người Anh. Tiếp theo sau đó là nhiều trận thi đấu cũng dưới hình thức này, thí dụ như trận thi đấu với Áo vào ngày 8 tháng 4 năm 1901, là trận đấu được sách báo bóng đá Áo xem là "trận thi đấu quốc tế nguyên thủy".

Thi đấu quốc tế lần đầu tiên (Pháp-Thụy Sĩ) vào ngày 12 tháng 2 năm 1905

Đội Thụy Sĩ thi đấu trận quốc tế chính thức đầu tiên vào ngày 12 tháng 2 năm 1905 tại Paris với Đội tuyển bóng đá quốc gia Pháp. Trận lượt về tại Geneva chỉ được tiến hành 3 năm sau đó do Liên đoàn có nhiều khó khăn về tài chính. Chiến thắng đầu tiên của Thụy Sĩ là trận thi đấu quốc tế lần thứ ba vào ngày 5 tháng 4 năm 1908. Đội đã thắng Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức tại thành phố Basel với tỉ số 5:3. Đây cũng là trận thi đấu quốc tế đầu tiên của Đội tuyển bóng đá quốc gia Đức. Đội khách ngày 20 tháng 5 năm 1090Đội tuyển bóng đá quốc gia Anh, Thụy Sĩ đã thua 0:9. Trận này cũng như là trận trên sân khách gặp Đội tuyển bóng đá quốc gia Hungary năm 1911 kết thúc với cùng tỉ số là trận thua đậm nhất cho đến nay. Tuy Liên đoàn đã có kế hoạch tham dự Thế vận hội mùa hè 1912 tại Stockholm, nhưng lại không thực hiện được do thiếu thốn về tài chính.

Khi Đệ nhất thế chiến bắt đầu, bóng đá tại Thụy Sĩ bị giới hạn rất nhiều, hơn nửa các sân thi đấu bị biến thành đồng ruộng và nhiều câu lạc bộ đã phải giải thể do nhiều cầu thủ phải tham gia quân đội. Bắt đầu từ năm 1916 bóng đá bắt đầu được thi đấu bình thường rộng khắp. Tổng cộng có 5 trận thi đấu quốc tế được tổ chức, 2 trận trên sân nhà với đội tuyển Áo và mỗi một trận trên sân khách tại Ý, Áo và Hungary.

Giữa 2 cuộc thế chiến (1918-1938)[sửa | sửa mã nguồn]

Trận thi đấu quốc tế đầu tiên sau chiến tranh được tổ chức vào ngày 29 tháng 2 năm 1920 với Đội tuyển quốc gia Pháp. Trận gặp Đức vào ngày 27 tháng 6 năm 1920 tại Zürich đã gây bùng nổ tranh cãi về mặt chính trị. Liên đoàn bóng đá châu Âu đã cấm nước Đức bại trận thi đấu quốc tế, việc mà người Thụy Sĩ đã phớt lờ đi. Pháp đe dọa tẩy chay bóng đá Thụy Sĩ, trong BỉAnh cũng đã có nhiều tiếng nói phản đối. Liên đoàn bóng đá vùng Romandie đã cấm không cho các thành viên tham gia trận đấu. Thế nhưng trận thi đấu này vẫn được tiến hành và chấm dứt với chiến thắng 4:1 nghiêng về đội Thụy Sĩ. Tiếp theo sau đó Anh quốc đã nộp đơn yêu cầu loại trừ Đức ra khỏi Liên đoàn bóng đá châu Âu, thế nhưng việc này lại không thành không và sau đấy Anh đã tự ly khai.

Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ đã quyết định tham gia giải bóng đá của Thế vận hội mùa hè 1920 tại Antwerpen ngay từ tháng 8 năm 1919. Thế nhưng chỉ 1 tuần trước khi giải bắt đầu liên đoàn đã rút lại thông báo tham dự, một mặt là vì thiếu tiền, mặt khác là không muốn xảy ra việc chia cắt liên đoàn theo ranh giới ngôn ngữ vì trận thi đấu gây nhiều tranh cãi với Đức.

17 cầu thủ và 3 huấn luyện viên đã đáp tàu hỏa đến Paris tham dự Thế vận hội mùa hè 1924. Do dự đoán sẽ sớm bị loại, Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ chỉ mua vé có hạn trong vòng 10 ngày. Trong trận vòng ngoài, Thụy Sĩ đã chiến thắng Đội tuyển bóng đá quốc gia Litva với tỉ số 9:0, là chiến thắng cao nhất trong lịch sử của đội. Sau chiến thắng đội Ý với tỉ số 2:1 trong trận tứ kết, tờ nhật báo Sport đã phải phát động một cuộc quyên góp để có thể tiếp tục chi trả phí khách sạn cho đội tuyển. Trong trận bán kết đội đã thắng bất ngờ Thụy Điển, một đội bóng mạnh của giải, với tỉ số 2:1. Thế nhưng điều kỳ điệu đã không xảy ra trong trận chung kết: đội thua Đội tuyển bóng đá quốc gia Uruguay với tỉ số 0:3. Tuy vậy đội cũng được nhận danh hiệu vô địch châu Âu không chính thức.

Sau đỉnh cao này thành tích của đội đã giảm đi trông thấy. Trong Thế vận hội mùa hè 1928 tại Amsterdam đội chỉ thi đấu mỗi một trận. Đội đã bị loại ngay trong trận gặp đội bóng Đức với tỉ số 0:4. Thành tích của đội cũng rất khiêm nhường trong các Giải châu Âu của các đội tuyển bóng đá quốc gia (tiền thân của Giải vô địch bóng đá châu Âu). Đội Thụy Sĩ đứng hạng chót trong tất cả 6 lần tổ chức. Cũng như nhiều đội tuyển bóng đá quốc gia châu Âu khác, vì lý do tài chính đội Thụy Sĩ đã không tham gia Giải vô địch bóng đá thế giới đầu tiên được tổ chức trong năm 1930 tại Uruguay.

Chỉ với nhiều may mắn Thụy Sĩ mới vượt qua được vòng loại của Giải vô địch bóng đá thế giới 1934 tại Ý. Hai trận hòa Nam Tư và Romania thật ra không đủ để qua được vòng loại, thế nhưng trong trận này đội tuyển Romania đã cho ra sân một cầu thủ không được phép thi đấu, vì thế mà kết quả hòa được đổi thành trận thắng 2:0 sau đó. Tranh cãi đã bùng nổ trước khi Giải vô địch được tiến hành giữa Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ và Servette FC Genève. Câu lạc bộ này lo ngại các cầu thủ có thể sẽ phải ngưng thi đấu một thời gian dài do chấn thương nên đã yêu cầu Liên đoàn bồi thường về tài chính. Chỉ sau khi bị Liên đoàn dọa phạt và chỉ một tuần trước khi Giải vô địch bắt đầu Servette FC Genève mới đồng ý cho các cầu thủ của câu lạc bộ đã được lựa chọn tham gia giải vô địch. Trong trận đấu đầu tiên của một giải vô địch thế giới, đội Thụy Sĩ thắng đội Hà Lan với tỉ số 3:2 và vào vòng tứ kết. Tuy vậy trong lần thi đấu tứ kết Thụy Sĩ đã thất bại trước Đội tuyển bóng đá quốc gia Tiệp Khắc, đội về nhì của giải này sau đó, với tỉ số 2:3.

Năm 1931 Liên đoàn Bóng đá Thụy Sĩ đưa ra thể thức thi đấu liên đoàn (league) với cầu thủ chuyên nghiệp. Việc này đã không mang lại kết quả như mong muốn. Nhiều cầu thủ đội tuyển quốc gia vẫn thích thi đấu ở nước ngoài do có lợi hơn, số lượng khán giả vẫn khiêm nhường và mục đích chính là nâng cao khả năng thi đấu của đội tuyển vẫn không đạt được. Trong khoản thời gian 1934-1938 cứ 4 lần thi đấu thì đội tuyển chỉ thắng được một trận. Năm 1937 mức lương trần được hạ thấp xuống nhiều đến mức các cầu thủ bắt buộc phải tìm thêm việc làm phụ. Năm 1943 chủ tịch liên đoàn ông Robert Zumbühl cấm bóng đá chuyên nghiệp hoàn toàn. Các quy định nghiêm ngặt này còn bao gồm cả việc bắt buộc phải tạm ngưng thi đấu 1 năm sau khi chuyển câu lạc bộ và chỉ được nới lỏng ra hai thập niên sau đó.

Trong tháng 9 năm 1937 Karl Rappan tiếp nhận chức vụ huấn luyện viên đội tuyển và đã tạo dấu ấn quyết định cho nền bóng đá Thụy Sĩ trong thời gian 25 năm tiếp theo sau đó. Huấn luyện viên người Áo đã gây ra nhiều tranh cãi do là thành viên của Đảng Đức Quốc xã này đã đưa vào đội tuyển chiến thuật phòng thủ xuất xứ từ Trung-Đông Âu mà sau đó nổi tiếng dưới tên "then cửa Thụy Sĩ" (Schweizer Riegel). Hình thức pha trộn giữa việc kèm người và phòng thủ khu vực này đã giúp cho đội tuyển Thụy Sĩ có khả năng đứng vững trước các đội tuyển được đánh giá là mạnh hơn. Chiến thuật thi đấu Catenaccio của Ý sau này đã phát triển từ hình thức này mà ra...

(Xem thêm Thụy Sĩ)

Trang phục[sửa | sửa mã nguồn]

Giới thiệu về trang phục đội bóng

Trang phục của các cầu thủ đội tuyển Thụy Sĩ gần như không thay đổi kể từ trận thi đấu quốc tế lần đầu tiên trong năm 1905. Trên sân nhà các cầu thủ mang áo đỏ, quần trắng và tất đỏ. Màu đỏ thường tương ứng với màu đỏ của quốc kỳ Thụy Sĩ. Trên sân khách thì màu ngược lại. Thỉnh thoảng đội cũng mang trang phục toàn đỏ hay trắng. Một chữ thập Thụy Sĩ màu trắng nổi bật đã được gắn trên áo phía ngực trái 75 năm liền. Độ lớn của chữ thập đã nhỏ đi 1/3 theo thời gian. Từ đầu thập niên 1980 chữ thập đã được thay thế bằng biểu trưng của Liên đoàn bóng đá Thụy Sĩ. Chỉ có thể nhận thấy chữ thập trong biểu trưng này một cách không rõ ràng. Đội Thụy Sĩ chỉ mang trang phục màu vàng duy nhất trong lần thi đấu hữu nghị với Áo vào ngày 11 tháng 10 năm 2006.

Sân vận động[sửa | sửa mã nguồn]

Giới thiệu về sân vận động thường được đội tuyển chọn làm sân nhà
Sân vận động Stade de Suisse

Thụy Sĩ có một sân vận động quốc gia: Stade de Suisse tại thành phố Bern, nhưng sân này chỉ được sử dụng cho khoảng ¼ tổng số các trận thi đấu quốc tế trên sân nhà. Thể theo hình thức tổ chức liên bang của quốc gia, tất cả các vùng hành chính lớn đều lần lượt tổ chức các trận thi đấu quốc tế. Các nơi thi đấu chính khác là sân vận động St. Jakob-Park tại Basel, Hardturm tại ZürichSân vận động Genève tại Lancy gần Genève.

Basel, Bern, Genève và Zürich, 4 thành phố lớn nhất của Thụy Sĩ, đã là nơi thi đấu chính ngay từ những năm đầu tiên. Thêm vào đó là Stade Olypique de la Pontaise tại Lausanne (1923) nhưng chỉ được sử dụng lần cuối vào năm 1999. Năm 2003 sân Stade de Genève thay thế sân Stade des Chrmilles nhiều truyền thống trong thành phố Genève. Các trận thi đấu hữu nghị với số lượng khán giả được dự đoán trước là không nhiều lắm cũng được tổ chức tại các thành phố nhỏ hơn.

Tất cả 320 lần thi đấu trên sân nhà của Đội tuyển bóng đá quốc gia Thụy Sĩ được tổ chức tại các thành phố sau đây

Sân vận động Stade de Genève
Thành phốSố trậnThời gian
Bern74từ 1911
Basel72từ 1908
Zürich62từ 1911
Lausanne361923–1999
Genf331908–2001
St. Gallen121912–2002
Luzern101971–1997
Thành phốSố trậnThời gian
Lancy7từ 2003
Lugano51951–2000
Neuchâtel41983–1989
Sion21985–1994
La Chaux-de-Fonds11911
Aarau11987
Bellinzona11987

Thành tích tại các giải đấu lớn[sửa | sửa mã nguồn]

Giải vô địch bóng đá thế giới[sửa | sửa mã nguồn]

Thống kê thành tích tại các vòng chung kết World Cup
NămThành tíchThứ
hạng
Số trậnThắngHòa*ThuaBàn
thắng
Bàn
thua
Uruguay 1930Không tham dự-------
Bản mẫu:Country data Ý cũ 1934Không tham dự-------
Pháp 1938Không tham dự-------
Brasil 1950Vòng 111310222
Thụy Sĩ 1954Tứ kết6311188
Thụy Điển 1958Vòng 111403145
Chile 1962Tứ kết8411256
Anh 1966Vô địch16510113
México 1970Tứ kết8420244
Đức 1974Không vượt qua
vòng loại
-------
Bản mẫu:Country data Argentina (thay thế) 1978Không vượt qua
vòng loại
-------
Tây Ban Nha 1982Vòng bảng 26532061
México 1986Tứ kết8521273
Ý 1990Bán kết4733186
Hoa Kỳ 1994Không vượt qua
vòng loại
-------
Pháp 1998Vòng 29421174
Hàn Quốc Nhật Bản 2002Tứ kết6522163
Đức 2006Tứ kết7532062
Tổng cộng12/151 lần
vô địch
552517137447
*Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu.

Giải vô địch bóng đá cấp châu lục[sửa | sửa mã nguồn]

Thống kê thành tích tại các vòng chung kết cúp lục địa
NămThành tíchSố trậnThắngHòa*ThuaBàn
thắng
Bàn
thua
Pháp 1960Không tham dự------
Bản mẫu:Country data Tây Ban Nha 1939 1964Không tham dự------
Ý 1968Không vượt qua
vòng loại
------
Bỉ 1972Vô địch220051
Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư 1976Á quân210164
Ý 1980Vô địch431063
Pháp 1984Vòng 1311122
Tây Đức 1988Bán kết421163
Thụy Điển 1992Á quân521278
Anh 1996Vô địch6420103
Bỉ Hà Lan 2000Vòng 1301215
Bồ Đào Nha 2004Vòng 1302123
Thụy Sĩ Áo 2008Vượt qua
vòng loại
------
Tổng cộng3 lần vô địch32151074532
*Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu.

Cúp Confederations[sửa | sửa mã nguồn]

Thống kê thành tích tại các vòng chung kết Cúp Confederations
NămThành tíchSố trậnThắngHòa*ThuaBàn
thắng
Bàn
thua
Ả Rập Xê Út 1992Không vượt qua
vòng loại
------
Ả Rập Xê Út 1995Không vượt qua
vòng loại
------
Ả Rập Xê Út 1997Không tham dự------
México 1999Vòng 1310226
Hàn Quốc Nhật Bản 2001Không vượt qua
vòng loại
------
Pháp 2003Không tham dự------
Đức 2005Hạng ba53111511
Cộng hòa Nam Phi 2009
Tổng cộng2/784131717
*Tính cả các trận hoà ở các trận đấu loại trực tiếp phải giải quyết bằng sút phạt đền luân lưu.

Thành phần đội tuyển hiện tại[sửa | sửa mã nguồn]

Thành phần đội tuyển được triệu tập gần đây nhất

Thành phần đội tuyển tham dự Cúp bóng đá châu Phi 2008

SốVtCầu thủNgày sinh (tuổi)Số trậnCâu lạc bộ
1Sammy Adjei(1980-09-01)1 tháng 9 năm 198034 0(0)Israel Ashdod
2Hans Sarpei(1976-06-28)28 tháng 6 năm 197617 0(0)Đức Bayer Leverkusen
3Asamoah Gyan(1985-11-22)22 tháng 11 năm 198523 (12)Ý Udinese
4John Paintsil(1981-06-15)15 tháng 6 năm 198133 0(0)Anh West Ham United
5John Mensah(1982-11-29)29 tháng 11 năm 198244 0(0)Pháp Rennes
6Anthony Annan(1986-07-21)21 tháng 7 năm 198606 0(0)Na Uy IK Start
7Laryea Kingston(1980-11-07)7 tháng 11 năm 198019 0(4)Scotland Hearts
8Michael Essien(1982-12-03)3 tháng 12 năm 198231 0(5)Anh Chelsea
9Junior Agogo(1979-08-01)1 tháng 8 năm 197909 0(4)Anh Nottingham Forest
10Kwadwo Asamoah(1988-09-12)12 tháng 9 năm 198800 0(0)Ghana Liberty Professionals
11Sulley Muntari(1984-08-27)27 tháng 8 năm 198431 0(8)Anh Portsmouth
12André Ayew(1989-12-17)17 tháng 12 năm 198905 0(0)Pháp Marseille
13Baffour Gyan(1980-07-02)2 tháng 7 năm 198028 0(5)Nga Saturn Ramenskoye
14Bennard Yao Kumordzi(1985-03-21)21 tháng 3 năm 198503 0(1)Hy Lạp Panionios
15Ahmed Barusso(1984-12-26)26 tháng 12 năm 198404 0(1)Ý Roma
16Abdul Fatawu Dauda(1985-04-06)6 tháng 4 năm 198500 0(0)Ghana Ashanti Gold
17Nana Akwasi Asare(1986-07-11)11 tháng 7 năm 198602 0(0)Bỉ KV Mechelen
18Eric Addo(1978-11-12)12 tháng 11 năm 197817 0(0)Hà Lan PSV Eindhoven
19Illiasu Shilla(1982-10-26)26 tháng 10 năm 198213 0(0)Nga Saturn Ramenskoye
20Quincy Owusu-Abeyie(1986-04-15)15 tháng 4 năm 198600 0(0)Tây Ban Nha Celta de Vigo
21Harrison Afful(1986-06-24)24 tháng 6 năm 198600 0(0)Ghana Asante Kotoko
22Richard Kingson(1978-06-13)13 tháng 6 năm 197847 0(0)Anh Birmingham City
23Haminu Dramani(1986-04-01)1 tháng 4 năm 198617 0(2)Nga Lokomotiv Moscow

Các cầu thủ khoác áo đội tuyển nhiều nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 18 tháng 10 năm 2007

#Họ tênNăm thi đấuSố trậnSố bàn thắng
1Lilian Thuram1994 - nay1332
2Marcel Desailly1993 - 20041163
3Zinedine Zidane1994 - 200610831
4Patrick Vieira1997 - nay1046
5Didier Deschamps1989 - 20001034
6Laurent Blanc1989 - 20009716
7Bixente Lizarazu1992 - 2004972
8Thierry Henry1997 - nay9643
=Sylvain Wiltord1999 - nay9226
10Fabien Barthez1994 - 2006870

Các cầu thủ ghi nhiều bàn thắng nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 18 tháng 10 năm 2007

#Họ tênNăm thi đấuSố bàn thắngSố trận
1Thierry Henry1997 - nay43[2]96
2Michel Platini1976 - 19874172
3David Trezeguet1998 - nay3470
4Zinedine Zidane1994 - 200631108
5Just Fontaine1953 - 19603021
=Jean-Pierre Papin1986 - 19953054
7Youri Djorkaeff1993 - 20022882
8Sylvain Wiltord1999 - nay2692
9Jean Vincent1953 - 19612246
10Jean Nicolas1933 - 19382125

Huấn luyện viên[sửa | sửa mã nguồn]

"Danh sách các huấn luyện viên trưởng đội tuyển qua các thời kỳ"

TTHuấn luyện viênThời gian huấn luyệnSố trậnThắngHòaThuaDanh hiệu
1Hội đồng của FFFtrước 1955
2Albert Batteux1955-1962
3Henri Guérin1962-1966
4José ArribasJean Snella1966
5Just Fontaine1967
6Louis Dugauguez1967-1968
7Georges Boulogne1969-1973
8Stefan Kovacs1973-1975
9Michel Hidalgo1976-1984Vô địch Euro 1984
10Henri Michel1984-1988
11Michel Platini1988-1992
12Gérard Houllier1992-1993
13Aimé Jacquet1993-1998Vô địch World Cup 1998
14Roger Lemerre1998-2002Vô địch Euro 2000
15Jacques Santini2002-2004
16Raymond Domenech2004-nayHạng nhì World Cup 2006
Tổng cộng
  1. ^ Gergana Ghanbarian-Baleva: Ein englischer Sport aus der Schweiz (Môn thể thao Anh từ nước Thụy Sĩ), trong Überall ist der Ball rund – zur Geschichte und Gegenwart des Fussballs in Ost- und Südosteuropa (Trái banh đều tròn ở khắp nơi - Lịch sử và hiện tại của nền bóng đá Đông và Đông Nam Âu), trang 155–182
  2. ^ Với 2 bàn trong trận đấu gặp Litva ở vòng loại Euro 2008 ngày 17 tháng 10 năm 2007, Henry trở thành cầu thủ ghi nhiều bàn nhất cho đội tuyển Pháp, vượt qua kỉ lục của Platini tồn tại trong 20 năm

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]


Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Wikipedia:D%E1%BB%B1_%C3%A1n/B%C3%B3ng_%C4%91%C3%A1_t%E1%BA%A1i_Wikipedia_ti%E1%BA%BFng_Vi%E1%BB%87t/%C4%90%E1%BB%99i_tuy%E1%BB%83n_b%C3%B3ng_%C4%91%C3%A1_qu%E1%BB%91c_gia_(m%E1%BA%ABu_b%C3%A0i_vi%E1%BA%BFt)