Wiki - KEONHACAI COPA

Giải đua xe Công thức 1 2015

Giải đua xe Công thức 1
năm 2015
Tay đua vô địch: Lewis Hamilton
Đội đua vô địch: Mercedes
Trước:2014Sau:2016
Lewis Hamilton bảo vệ thành công chức vô địch của mình sau khi giành chiến thắng tại giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ 2015[1]. Đồng đội của Hamilton, Nico Rosberg đứng thứ nhì cho MercedesSebastian Vettel đứng thứ ba trong mùa giải đầu tiên với Ferrari.
A picture of Lewis Hamilton driving a Mercedes F1 W06 Hybrid formula one car during the 2015 Canadian Grand Prix.
Mercedes giành chức vô địch hạng mục đội đua lần thứ hai liên tiếp tại giải đua ô tô Công thức 1 Nga với chiếc xe đua Mercedes F1 W06 Hybrid.

Giải đua xe Công thức 1 2015 là mùa giải thứ 66 của Công thức 1 do Liên đoàn Ô tô Quốc tế (FIA) tổ chức. Giải này bao gồm 19 chặng đua, bắt đầu ở Úc vào ngày 15 tháng 3 và kết thúc ở Abu Dhabi vào ngày 29 tháng 11.

Lewis Hamilton là đương kim vô địch hạng mục tay đua sau khi giành được danh hiệu thứ hai của mình tại giải đua ô tô Công thức 1 Abu Dhabi 2014. Đội đua của anh, Mercedes, đã bắt đầu mùa giải với tư cách là đương kim vô địch hạng mục đội đua sau khi vô địch lần đầu tiên tại giải đua ô tô Công thức 1 Nga 2014.

So với năm 2014, lịch đua có hai thay đổi: Đầu tiên là sự trở lại của giải đua ô tô Công thức 1 México kể từ năm 1992. Sự thay đổi khác là giải đua ô tô Công thức 1 Đức bị hủy bỏ sau khi không thống nhất về địa điểm tổ chức, khiến Đức lần đầu tiên không tổ chức một sự kiện Công thức 1 nào kể từ 55 năm.

Hamilton đã giành được chức vô địch hạng mục tay đua thứ ba của mình từ ba chặng đua còn lại. Người đứng thứ nhì là đồng đội của anh, Nico Rosberg và người đứng thứ ba là Sebastian Vettel của Ferrari. Mercedes đã giành chức vô địch hạng mục đội đua tại giải đua ô tô Công thức 1 Nga trước Ferrari và Williams và đồng thời kết thúc mùa giải với số điểm kỷ lục là 703. Hamilton cũng đã giành được giải thưởng FIA Pole Trophy với tổng cộng 11 vị trí pole trong mùa giải và giải thưởng Vòng đua nhanh nhất DHL. Ferrari lần đầu tiên giành được giải thưởng Lần đổi lốp Nhanh nhất DHL.

Các tay đua và đội đua[sửa | sửa mã nguồn]

Bảng này liệt kê tất cả các tay đua có hợp đồng với đội đua với tư cách là tay đua chính hoặc tay đua dự bị/lái thử cho mùa giải 2015. Các đội đua sau đây được sắp xếp theo thứ tự của bảng xếp hạng các đội đua vào năm 2014. Tất cả các đội đua thi đấu trong mùa giải này sử dụng lốp Pirelli.

Đội đuaXe đuaĐộng cơSố xeTay đuaSố chặng đua đã tham giaTay đua lái thử/dự bị
Đức Mercedes AMG Petronas F1 TeamMercedes F1 W06 HybridMercedes PU106B Hybrid6Đức Nico RosbergTất cảĐức Pascal Wehrlein[2]
44Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis Hamilton[# 1]Tất cả
Áo Infiniti Red Bull RacingRed Bull RB11Renault Energy F1-20153Úc Daniel RicciardoTất cảThụy Sĩ Sébastien Buemi[3]

Bồ Đào Nha António Félix da Costa[4]

Pháp Pierre Gasly[4]

26Nga Daniil KvyatTất cả
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Williams Martini RacingWilliams FW37Mercedes PU106B Hybrid19Brasil Felipe MassaTất cảVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Alex Lynn[5]

Đức Adrian Sutil[6]

Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Susie Wolff[7]

77Phần Lan Valtteri BottasTất cả
Ý Scuderia FerrariFerrari SF15-TFerrari 060[8]5Đức Sebastian VettelTất cảTây Ban Nha Marc Gené[9]

México Esteban Gutiérrez[10]

Ý Davide Rigon[9]

Pháp Jean-Éric Vergne[9]

7Phần Lan Kimi RäikkönenTất cả
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland McLaren HondaMcLaren MP4-30Honda RA615H14Tây Ban Nha Fernando AlonsoTất cảĐan Mạch Kevin Magnussen[11]

Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Oliver Turvey[12]

Bỉ Stoffel Vandoorne[13]

20Đan Mạch Kevin MagnussenTất cả
22Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Jenson ButtonTất cả
Ấn Độ Sahara Force India F1 TeamForce India VJM08

Force India VJM08B[14]

Mercedes PU106B Hybrid11México Sergio PérezTất cảMéxico Alfonso Celis jr.[15]

Colombia Steven Goldstein[16]

27Đức Nico HülkenbergTất cả
Ý Scuderia Toro RossoToro Rosso STR10Renault Energy F1-201533Hà Lan Max VerstappenTất cảKhông có
55Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr.Tất cả
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lotus F1 TeamLotus E23 HybridMercedes

PU106B Hybrid

8Pháp Romain GrosjeanTất cảHồng Kông Adderly Fong[17]

Tây Ban Nha Carmen Jordá[18]

Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Jolyon Palmer[19]

13Venezuela Pastor MaldonadoTất cả
Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Manor Marussia F1 TeamMarussia MR03B[20][21]Ferrari 059/3[22][23]28Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Will StevensTất cảIndonesia Rio Haryanto[24]

Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Jordan King[25]

Thụy Sĩ Fabio Leimer[26]

98Tây Ban Nha Roberto Merhi1–12, 15, 19
53Hoa Kỳ Alexander Rossi13–14, 16–18
Thụy Sĩ Sauber F1 TeamSauber C34Ferrari 060[8]9Thụy Điển Marcus EricssonTất cảHồng Kông Adderly Fong

Ý Raffaele Marciello[27]

12Brasil Felipe NasrTất cả

Chú thích:

  1. ^ Lewis Hamilton quyết định tiếp tục thi đấu với số 44. Mặc dù tham gia mùa giải này với tư cách là đương kim vô địch, Hamilton cũng có thể sử dụng số xe 1.

Thay đổi tay đua[sửa | sửa mã nguồn]

Thay đổi đội đua[sửa | sửa mã nguồn]

  • Trong mùa giải này, McLarenLotus F1 Team đều thay đổi nhà cung cấp động cơ:
    • McLaren đã kết thúc mối quan hệ hợp tác kéo dài 20 năm với Mercedes-Benz để quay trở lại với Honda kể từ năm 1992. Honda đã vắng mặt bảy năm trong Công thức 1 và trước đó công ty này đã cung cấp động cơ cho British American RacingJordan Grand Prix cho đến khi họ mua đội British American Racing vào năm 2006 và sau đó tham gia với tư cách là đội đua cho đến năm 2008[45].
    • Lotus F1 Team chấm dứt hợp tác với Renault và chuyển sang sử dụng động cơ của Mercedes[46]. Điều này đã kết thúc 20 năm gắn bó của Renault với đội đua có trụ sở tại Enstone (Lotus F1 Team trước đây tham gia với tên gọi Benetton Formula từ năm 1992 đến năm 2001 và với tên gọi Renault từ năm 2002 đến năm 2011).
  • Vào cuối mùa giải 2014, Caterham F1 TeamMarussia đều gặp phá sản. Trong khi Marussia được cứu khỏi sự phá sản trong gang tấc vào tháng 2 năm 2015[47], Caterham đã giải thể và tài sản của đội đã được bán đấu giá bởi các quản trị viên công ty sau khi mùa giải bắt đầu[48].

Lịch đua[sửa | sửa mã nguồn]

19 chặng đua sau đây diễn ra vào năm 2015:[49]

SttChặng đuaTrường đuaNgày
1Giải đua ô tô Công thức 1 ÚcÚc Trường đua Albert Park, Melbourne15 tháng 3
2Giải đua ô tô Công thức 1 MalaysiaMalaysia Trường đua Sepang International, Kuala Lumpur29 tháng 3
3Giải đua ô tô Công thức 1 Trung QuốcTrung Quốc Trường đua Shanghai International, Thượng Hải12 tháng 4
4Giải đua ô tô Công thức 1 BahrainBahrain Trường đua Bahrain International, Sakhir19 tháng 4
5Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban NhaTây Ban Nha Trường đua Barcelona-Catalunya, Montmeló10 tháng 5
6Giải đua ô tô Công thức 1 MonacoMonaco Trường đua Monaco, Monte Carlo24 tháng 5
7Giải đua ô tô Công thức 1 CanadaCanada Circuit Gilles Villeneuve, Montreal7 tháng 6
8Giải đua ô tô Công thức 1 ÁoÁo Red Bull Ring, Spielberg21 tháng 6
9Giải đua ô tô Công thức 1 AnhVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Trường đua Silverstone, Silverstone5 tháng 7
10Giải đua ô tô Công thức 1 HungaryHungary Hungaroring, Mogyoród26 tháng 7
11Giải đua ô tô Công thức 1 BỉBỉ Trường đua Spa-Francorchamps, Stavelot23 tháng 8
12Giải đua ô tô Công thức 1 ÝÝ Trường đua Monza, Monza6 tháng 9
13Giải đua ô tô Công thức 1 SingaporeSingapore Trường đua đường phố Marina Bay, Singapore20 tháng 9
14Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật BảnNhật Bản Trường đua Suzuka International, Suzuka27 tháng 9
15Giải đua ô tô Công thức 1 NgaNga Trường đua Sochi, Sochi11 tháng 10
16Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa KỳHoa Kỳ Trường đua Americas, Austin, Texas25 tháng 10
17Giải đua ô tô Công thức 1 MéxicoMéxico Trường đua Anh em Rodríguez, Thành phố México1 tháng 11
18Giải đua ô tô Công thức 1 BrasilBrasil Trường đua José Carlos Pace, São Paulo15 tháng 11
19Giải đua ô tô Công thức 1 Abu DhabiCác Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất Trường đua Yas Marina, Abu Dhabi29 tháng 11

Thay đổi lịch đua[sửa | sửa mã nguồn]

Giải đua ô tô Công thức 1 Méxicotrường đua Anh em Rodríguez chính thức quay trở lại lịch đua năm 2015 sau khi vắng mặt kể từ năm 1986.

Một chặng đua mới xuất hiện trong mùa này là giải đua ô tô Công thức 1 México (ngày nay là giải đua ô tô Công thức 1 Thành phố México). Chặng đua này cũng được đưa vào lịch đua tạm thời cho mùa giải 2014 nhưng không được đưa vào lịch cuối cùng của năm 2014[50]. Giải đua ô tô Công thức 1 Hàn Quốc xuất hiện lần cuối cùng trong lịch đua vào năm 2013. Mặc dù sự kiện này quay trở lại lịch trong thời gian, tuy nhiên, nhà quản lý không chắc cuộc đua sẽ diễn ra ở đâu. Ngoài trường đua Korea InternationalYeongam, một truờng đua đường phố ở Seoul cũng được đề cập đến. Đây đã có thể là lần đầu tiên trong lịch sử Công thức 1, lịch đua sẽ bao gồm 21 chặng đua trong một mùa giải. Thế nhưng, vào ngày 6 tháng 1 năm 2015, FIA thông báo rằng giải đua ô tô Công thức 1 Hàn Quốc đã bị xóa khỏi lịch khiến số lượng chặng đua xuống còn 20.

Việc thay đổi địa điểm mỗi năm một lần của giải đua ô tô Công thức 1 Đức từ trường đua Hockenheimring sang trường đua Nürburgring không được xác nhận sau khi lịch đua chính thức được công bố do sự thay đổi quyền sở hữu của ban quản lý trường đua Nürburgring. Ông Bernie Ecclestone cho biết, vào giữa tháng 1 năm 2015, các cuộc đàm phán đang được tiến hành với ban quản lý trường đua Hockenheimring về việc tổ chức cuộc đua vì giải đua ô tô Công thức 1 Đức không thể diễn ra tại Nürburgring vì không có ai ở đó. Giám đốc điều hành trường đua Nürburgring, ông Carsten Schumacher, thừa nhận rằng Nürburgring không có hợp đồng cho năm 2015 trong khi giám đốc điều hành trường đua Hockenheimring, ông Georg Seiler, xác nhận rằng hợp đồng hiện tại của Hockenheimring chỉ bao gồm các cuộc đua cho những năm 2016 và 2018[51]. Trong một bản fax gửi tới tờ báo Rhein-Zeitung vào ngày 2 tháng 2 năm 2015, Ecclestone đã viết rằng sẽ không có bất kỳ một chặng đua Công thức 1 nào được tổ chức ở Đức. Tuy nhiên, sau đó ông nói với Reuters rằng giải đua ô tô Công thức 1 Đức khó có thể tiếp tục diễn ra nhưng các bên có sẵn những nỗ lực để cứu sự kiện đó. Vào ngày 17 tháng 3, ban quản lý trường đua Hockenheimring thông báo rằng họ sẽ không tổ chức một chặng đua Công thức 1 nào mặc dù Mercedes-Benz đã đề nghị đóng góp 12 triệu euro cho chi phí của cuộc đua theo báo cáo của các phương tiện truyền thông. Hai ngày sau, ban quản lý của trường đua Nürburgring cũng thông báo rằng họ sẽ không tổ chức sự kiện này. Vì vậy, giải đua ô tô Công thức 1 Đức chính thức bị hủy bỏ vào ngày 20 tháng 3[52].

Thay đổi quy định[sửa | sửa mã nguồn]

Thay đổi quy định kỹ thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ nguồn[sửa | sửa mã nguồn]

Số lượng bộ nguồn mà tay đua có thể sử dụng trong một mùa giải đã giảm từ năm vào năm 2014 xuống còn bốn vào năm 2015[53]. Quy định này đã được điều chỉnh sau giải đua ô tô Công thức 1 Anh 2015 với việc các nhà sản xuất bộ nguồn mới được phép sử dụng một bộ nguồn khác trong mùa giải thi đấu đầu tiên của họ. Nhà sản xuất bộ nguồn duy nhất bị ảnh hưởng trong mùa giải 2015 là Honda. Honda được phép tận dụng quy tắc này mặc dù nó đã được xóa sau khi mùa giải bắt đầu. Các quy tắc liên quan đến phát triển động cơ đã được giới thiệu cho mùa trước cũng đã được thay đổi với việc các nhà sản xuất được phép thực hiện một nửa quá trình phát triển được phép vào năm 2014[54].

Mũi xe[sửa | sửa mã nguồn]

Sau phản ứng dữ dội về thiết kế mũi xe "xấu xí" vào năm 2014, FIA đã sửa đổi các quy tắc liên quan đến thiết kế mũi xe cho mùa giải 2015. Mũi xe năm 2015 thấp hơn so với năm 2014 và giữ lại tiết diện tối thiểu. Mặc dù vậy, chúng phải thuôn nhọn đến một điểm với tốc độ tuyến tính cố định để loại bỏ hiệu quả các hình dạng ngón tay ấn tượng được thấy trong năm 2014 để có hình dạng thẳng hơn. Hơn nữa, thiết kế của mũi phải đối xứng và nhất quán với đường tâm của xe. Do đó, FIA đã cấm tất cả các đội đua thiết kế mũi xe theo kiểu kỳ lạ hơn, chẳng hạn như kiểu "hình ngà voi đôi" được Lotus sử dụng trên chiếc xe đua Lotus E22 của đội vào năm ngoái[55].

Trọng lượng[sửa | sửa mã nguồn]

Trọng lượng tối thiểu của xe đua đã được tăng lên 702 kg, hơn 10 kg so với năm 2014[56]. Quy định mới này đã giải quyết những lo ngại được đưa ra vào năm trước rằng giới hạn trọng lượng nhẹ hơn buộc tay đua cao hơn trở nên gầy gò một cách không lành mạnh. Quy định cấm hệ thống treo liên kết phía trước và phía sau (FRIC) đã được thực hiện vào giữa mùa giải 2014 đã được chính thức hóa cùng với các quy định nêu rõ rằng hệ thống treo lốp trước và sau phải được thiết kế sao cho bất kỳ sự thay đổi nào trong hiệu suất phải là kết quả trực tiếp của sự thay đổi tải áp dụng riêng cho chúng. Các tấm chống xâm nhập ở cả hai bên của ô sinh tồn được mở rộng lên trên mép buồng lái và dọc theo đầu tay đua để cải thiện sự an toàn của tay đua trong trường hợp có tác động phụ[57]. Các khối trượt bằng titan ở mặt dưới của xe đua bắt buộc phải có trong mùa giải 2015 dẫn đến xe đua tạo ra tia lửa điện trở lại khi gầm xe chạm vào đường đua[58].

Thay đổi quy định thể thao[sửa | sửa mã nguồn]

Án phạt[sửa | sửa mã nguồn]

Một số quy tắc liên quan đến án phạt đã được thay đổi cho mùa giải 2015. Trong mùa giải 2015, các án phạt không còn được áp dụng đối với việc thay thế đơn vị năng lượng vượt quá số lượng tối đa cho phép mỗi mùa. Ngoài ra, các án phạt tiếp tục được áp dụng cộng dồn cho việc thay thế các bộ phận riêng lẻ của bộ nguồn và được áp dụng với ảnh hưởng đến vị trí xuất phát của tay đua. Điều đó không thể áp dụng đầy đủ thì phần còn lại của hình phạt không còn nữa. Thay vào đó, án phạt được chuyển sang cuộc đua tiếp theo nhưng thay vào đó được áp dụng dưới hình thức phạt thời gian trong cuộc đua tương ứng cùng với tụt xuống vị trí cuối cùng[59]. Điều này đã được điều chỉnh và có hiệu lực sau giải đua ô tô Công thức 1 Anh 2015 để khiến việc tụt xuống vị trí xuất phát cuối cùng trở thành hình phạt tối đa cho những thay đổi động cơ. Thêm vào đó, các án phạt thời gian phải được thi hành sẽ được loại bỏ trong cuộc đua[60].

Cũng như hình phạt năm giây hiện tại có thể được thực hiện trong lúc đổi lốp trong suốt cuộc đua, một án phạt mười giây mới đã được đưa vào và án phạt này cũng được thực hiện tương tự như án phạt năm giây. Nếu một chiếc xe đua rời khỏi chỗ đổi lốp một cách không an toàn, tay đua đó sẽ bị phạt mười giây theo kiểu stop and go. Các án phạt khác cũng có thể được áp dụng nếu ban quản lý tin rằng tay đua biết rõ điều lệ này và vẫn cố tình vi phạm. Nếu bất kỳ nhân viên nào của đội hoặc thiết bị của đội vẫn còn trên làn xuất phát sau khi tín hiệu 15 giây được hiển thị trước khi bắt đầu vòng đua theo đội hình, thì tay đua có liên quan sẽ phải bắt đầu cuộc đua từ làn pit. Nếu tay đua liên quan không tuân theo điều này, họ sẽ bị phạt mười giây stop and go[59].

Vòng phân hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Các quy tắc liên quan đến vòng phân hạng đã được điều chỉnh cho mùa giải 2015. Quy trình của vòng phân hạng đã được làm rõ hơn để phục vụ cho số lượng khác nhau của số lượng xe đua xuất phát[59]:

  • Nếu 24 chiếc xe tham gia cuộc đua, bảy chiếc sẽ bị loại sau mỗi phần trong số hai phần đầu tiên
  • Nếu 22 chiếc xe tham gia, sáu chiếc sẽ bị loại sau mỗi phần và v.v..[59]

Thời gian xuất phát[sửa | sửa mã nguồn]

Các quy tắc liên quan đến thời gian bắt đầu của một số cuộc đua đã được điều chỉnh cho mùa giải 2015. Do vụ tai nạn của Jules Bianchi tại giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản 2014 trong lúc trời bắt đầu tối nên các chặng đua Úc, Malaysia, Trung Quốc, Nhật Bản và Nga bắt đầu sớm hơn một giờ[61].

An toàn[sửa | sửa mã nguồn]

Trong mùa giải này, những thay đổi khác được đưa ra nhằm tăng cường sự an toàn trong các cuộc đua. Sau vụ tai nạn của Bianchi, xe an toàn ảo (VSC) đã được giới thiệu sau các cuộc thử nghiệm trong ba chặng đua cuối cùng của năm 2014. Xe an toàn ảo có thể được triển khai khi cờ vàng được vẫy kép trên bất kỳ đoạn nào của đường đua mà các tay đua đang cạnh tranh và các người quan sát đang gặp nguy hiểm nhưng xe an toàn ảo không đảm bảo nhiệm vụ của chiếc xe an toàn thực sự. Xe an toàn ảo sẽ buộc tay đua phải giảm tốc độ để phù hợp với tốc độ hiển thị trên màn hình trên vô lăng.

Ngoài ra, quy trình triển khai xe an toàn cũng được sửa đổi:

  • Sau khi chiếc xe bị bắt vòng cuối cùng đã vượt qua tay đua dẫn đầu, chiếc xe an toàn quay trở lại làn pit ở cuối vòng sau. Đây là một sự thay đổi so với thông lệ trước đây yêu cầu những chiếc xe bị bắt vòng cuối cùng phải đuổi kịp đoàn sau trước khi xe an toàn có thể quay lại làn pit. Nếu một cuộc đua bị tạm dừng (được gắn cờ đỏ), những chiếc xe sẽ không còn xếp hàng trên làn xuất phát nữa mà thay vào đó sẽ từ từ tiến vào đường pit. Lối ra vào của làn pit sẽ bị đóng và chiếc xe đầu tiên đến làn pit sẽ đi đến lối ra với những chiếc xe khác xếp hàng phía sau theo thứ tự mà họ đến, không kể đến vị trí của cuộc đua hay ga ra của từng đội. Trong những trường hợp nghiêm trọng, tất cả những chiếc xe đua có thể dừng ngay trên đường đua[59].

Thay đổi những quy định khác[sửa | sửa mã nguồn]

Kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Bỉ trở đi, liên lạc vô tuyến từ kỹ sư đến tay đua trong phần mở màn của cuộc đua, chẳng hạn như cài đặt bản đồ mô-men xoắn được khuyến nghị để tăng tốc tối ưu, không còn được phép nữa. Hạn chế này được bổ sung vào các quy định cấm liên lạc qua đài được thực hiện vào cuối mùa giải trước[62]. Thêm vào đó, tay đua cũng không còn được phép thay đổi thiết kế mũ bảo hiểm trong suốt mùa giải[63]. Ngoài ra, quy tắc giới hạn thời gian cũng được điều chỉnh sao cho các cuộc đua kéo dài đúng hai tiếng và người dẫn đầu hoàn thành một vòng và một vòng đầy đủ bổ sung sẽ được thực hiện trước khi cuộc đua kết thúc[64].

Tường thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Buổi thử nghiệm tiền mùa giải[sửa | sửa mã nguồn]

Để giảm chi phí, các buổi thử nghiệm trước mùa giải ở Bahrain sẽ không diễn ra và được thay thế bằng ba buổi thử nghiệm trước mùa giải riêng ở Châu Âu:

  • Jerez, từ ngày 1 đến ngày 4 tháng 2 năm 2015.
  • Barcelona, ​​từ ngày 19 đến 22 tháng 2 năm 2015.
  • Barcelona, ​​từ ngày 26 tháng 2 đến ngày 1 tháng 3 năm 2015.

Diễn biến mùa giải[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chặng đua đầu tiên của mùa giải ở Úc, chỉ có 15 tay đua xuất phát do năm tay đua còn lại rút lui hoặc không thể xuất phát. Điều tương tự đã xảy ra tại giải đua ô tô Công thức 1 Hoa Kỳ 2005 khi tất cả các xe sử dụng lốp Michelin đi vào làn pit và bỏ cuộc sau vòng khởi động và chỉ có sáu xe sử dụng lốp Bridgestone tham gia tranh tài cuộc đua. Chặng đua tương tự gần đây nhất là giải đua ô tô Công thức 1 San Marino 1982. Lewis Hamilton giành chiến thắng cuộc đua này trước Nico RosbergSebastian Vettel. Đồng thời, Hamilton cũng đã lập được một hat trick sau khi giành chiến thắng, đứng ở vị trí pole và lập vòng đua nhanh nhất. Các tay đua ghi điểm còn lại trong cuộc đua này là Felipe Massa, Felipe Nasr, Daniel Ricciardo, Nico Hülkenberg, Marcus Ericsson, Carlos Sainz Jr.Sergio Pérez[65]. Sau cuộc đua này, ba tay đua tân binh Nasr, Sainz và Ericsson lần đầu tiên ghi điểm trong cuộc đua đầu tiên của họ. Button về đích ở vị trí thứ 11 và là người v cuối cùng với khoảng cách kém hai vòng đua. Tay đua tân binh Max Verstappen đã phải bỏ cuộc do gặp vấn đề về động cơ ở vòng đua thứ 34. Sau cuộc đua này, Hamilton đứng trước Rosberg và Vettel trong bảng xếp hạng các tay đua[66]. Trong bảng xếp hạng các tay đua, Mercedes đứng trước FerrariSauber với tổng cộng 43 điểm từ Hamilton và Rosberg[66].

Tại giải đua ô tô Công thức 1 Malaysia, chặng đua thứ hai của mùa giải, Lewis Hamilton đứng ở vị trí pole. Anh xuất phát tốt và bảo vệ được vị trí dẫn đầu trong khi Rosberg gây sức ép lên để tấn công Vettel nhưng không thể vượt qua. Ở vòng đua thứ tư, phanh của Marcus Ericsson bị hỏng khiến Ericsson lao vào bẫy sỏi. Do vậy, xe an toàn được triển khai để chiếc xe đó có thể bị thu hồi. Sau khi cuộc đua bắt đầu trở lại, Vettel dẫn trước Nico Hülkenberg, Romain Grosjean, Carlos Sainz Jr., Sergio Pérez, Hamilton, Daniel Ricciardo, Felipe Massa, Nico RosbergMax Verstappen. Ở vòng đua thứ 18, Vettel đổi lốp lần đầu tiên và tụt xuống thứ ba sau hai tay đua Mercedes. Tuy nhiên, tốc độ của Vettel càng ngày càng nhanh hơn so với các tay đua Mercedes và sau đó, anh vượt qua Rosberg. Trong vài vòng đua tiếp theo, Hülkenberg và Daniil Kvyat va chạm ở góc cua thứ hai và Hülkenberg nhận một án phạt mười giây vì đã gây ra vụ va chạm này[67]. Mặc dù liên tục thay lốp mới trong các vòng đua sau đó, cả hai tay đua Mercedes không thể về đích trước Vettel mặc dù lập thời gian nhanh hơn Vettel. Sau khi cuộc đua kết thúc, Vettel giành chiến thắng trong cuộc đua khoảng 9 giây trước Hamilton và Rosberg. Các tay đua còn lại ghi điểm trong cuộc đua này là Kimi Räikkönen, Valtteri Bottas, Felipe Massa, Max Verstappen, Carlos Sainz Jr., Daniil KvyatDaniel Ricciardo[68]. Đó là chiến thắng đầu tiên của Vettel cho Ferrari và là chiến thắng đầu tiên của Ferrari kể từ giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban Nha 2013[69]. Đồng thời, đó cũng là chiến thắng đầu tiên của anh kể từ năm 2013[70]. Ngoài ra, Max Verstappen cũng trở thành tay đua trẻ nhất ghi được điểm trong lịch sử Công thức 1 sau khi về đích ở vị trí thứ bảy[71] và phá được kỷ lục của Kvyat tại giải đua ô tô Công thức 1 Úc 2014[71]. Hamilton tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng các tay đua trong khi Vettel vượt qua Rosberg để giành vị trí thứ hai. Trong bảng xếp hạng các đội đua, Mercedes dẫn trước Ferrari trong khi Williams giành vị trí thứ ba từ tay Sauber.

Sau khi giải đua ô tô Công thức 1 Trung Quốc bắt đầu, Lewis Hamilton dẫn trước Nico RosbergSebastian Vettel. Tiếp theo đó, Kimi Räikkönen vượt qua cả hai tay đua của Williams ở vòng đua đầu tiên và đứng ở vị trí thứ tư. Ở vòng đua thứ mười, Nico Hülkenberg là tay đua đầu tiên phải bỏ cuộc trong cuộc đua này do hộp số hỏng. Sáu vòng đua sau đó, Daniil Kvyat phải bỏ cuộc do động cơ hỏng. Trong khi các tay đua dẫn đầu xích lại gần nhau hơn, Rosberg liên tục phàn nàn nhiều lần qua đài phát thanh rằng Hamilton đang đua quá chậm và yêu cầu Hamilton phải giữ khoảng cách để lốp xe của Rosberg không bị xuống cấp quá mạnh[72]. Ở vòng đua thứ 48, Jenson ButtonPastor Maldonado va chạm ở cuối đường thẳng xuất phát khiến mũi xe của Button bị hư hại, thế nhưng, Button vẫn có thể tiếp tục cuộc đua. Maldonado cũng có thể tiếp tục đua tiếp nhưng phải bỏ cuộc hai vòng đua sau đó do phanh trục sau có vấn đề. Vì gây ra vụ va chạm này, Button bị phạt năm giây và nhận hai điểm phạt. Trong vòng sáu vòng đua tiếp theo, Max Verstappen phải dừng xe giữa đường thẳng xuất phát do lỗi kỹ thuật. Trong vòng hai vòng đua tiếp theo, Hamilton vượt qua vạch vôi để giành chiến thắng lần thứ hai trong mùa giải, với Rosberg theo sau anh ấy ở vị trí thứ 2 và Vettel ở vị trí thứ 3[72]. Đây cũng là lần thứ ba liên tiếp khi cả ba tay đua giống nhau cùng lên bục vinh quang. Sau cuộc đua, Hamilton cũng thiết lập một hat-trick sau khi lập vòng đua nhanh nhất. Kimi Räikkönen, Felipe Massa, Valtteri Bottas, Romain Grosjean, Felipe Nasr, Daniel RicciardoMarcus Ericsson là các tay đua ghi điểm còn lại trong chặng đua này[73]. Ngoài ra, Grosjean có thể ghi điểm đầu tiên cho Lotus trong mùa giải này sau khi về đích ở vị trí thứ 7[73]. Trong bảng xếp hạng các tay đua, Hamilton kéo dài vị trí dẫn đầu của mình trước Vettel và Rosberg[74]. Trong bảng xếp hạng các đội đua, Mercedes tiếp tục dẫn trước FerrariWilliams[75].

Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]

SttChặng đuaVị trí poleVòng đua

nhanh nhất

Tay đua

giành chiến thắng

Đội đua

giành chiến thắng

Diễn biến

chi tiết

1Giải đua ô tô Công thức 1 ÚcVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức MercedesChi tiết
2Giải đua ô tô Công thức 1 MalaysiaVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức Nico RosbergĐức Sebastian VettelÝ FerrariChi tiết
3Giải đua ô tô Công thức 1 Trung QuốcVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức MercedesChi tiết
4Giải đua ô tô Công thức 1 BahrainVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonPhần Lan Kimi RäikkönenVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức MercedesChi tiết
5Giải đua ô tô Công thức 1 Tây Ban NhaĐức Nico RosbergVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức Nico RosbergĐức MercedesChi tiết
6Giải đua ô tô Công thức 1 MonacoVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonÚc Daniel RicciardoĐức Nico RosbergĐức MercedesChi tiết
7Giải đua ô tô Công thức 1 CanadaVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonPhần Lan Kimi RäikkönenVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức MercedesChi tiết
8Giải đua ô tô Công thức 1 ÁoVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức Nico RosbergĐức Nico RosbergĐức MercedesChi tiết
9Giải đua ô tô Công thức 1 AnhVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức MercedesChi tiết
10Giải đua ô tô Công thức 1 HungaryVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonÚc Daniel RicciardoĐức Sebastian VettelÝ FerrariChi tiết
11Giải đua ô tô Công thức 1 BỉVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức Nico RosbergVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức MercedesChi tiết
12Giải đua ô tô Công thức 1 ÝVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức MercedesChi tiết
13Giải đua ô tô Công thức 1 SingaporeĐức Sebastian VettelÚc Daniel RicciardoĐức Sebastian VettelÝ FerrariChi tiết
14Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật BảnĐức Nico RosbergVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức MercedesChi tiết
15Giải đua ô tô Công thức 1 NgaĐức Nico RosbergĐức Sebastian VettelVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức MercedesChi tiết
16Giải đua ô tô Công thức 1 Hoa KỳĐức Nico RosbergĐức Nico RosbergVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức MercedesChi tiết
17Giải đua ô tô Công thức 1 MéxicoĐức Nico RosbergĐức Nico RosbergĐức Nico RosbergĐức MercedesChi tiết
18Giải đua ô tô Công thức 1 BrasilĐức Nico RosbergVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức Nico RosbergĐức MercedesChi tiết
19Giải đua ô tô Công thức 1 Abu DhabiĐức Nico RosbergVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis HamiltonĐức Nico RosbergĐức MercedesChi tiết

Bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Hệ thống ghi điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Điểm được trao cho các tay đua về đích ở 10 vị trí đầu tiên.[76]

Vị trí 1  2  3  4 567  8  9  10 
Số điểm251815121086421

Bảng xếp hạng các tay đua[sửa | sửa mã nguồn]

Vị tríTay đuaAUSÚcMALMalaysiaCHNTrung QuốcBHRBahrainESPTây Ban NhaMONMonacoCANCanadaAUTÁoGBRVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc IrelandHUNHungaryBELBỉITAÝSINSingaporeJPNNhật BảnRUSNgaUSAHoa KỳMEXMéxicoBRABrasilABUCác Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhấtSố điểm
1Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lewis Hamilton1PF2P1PF1P2F3P1P2P1PF6P1P1PFRet1F1122F2F381
2Đức Nico Rosberg23F231P121F282F1742PRetP2PF1PF1P1P322
3Đức Sebastian Vettel31353254311221P32F3Ret34278
4Phần Lan Kimi RäikkönenRet442F564FRet8Ret75348RetRet43150
5Phần Lan Valtteri BottasDNS56441435513945512Ret3513136
6Brasil Felipe Massa465106156341263Ret174Ret6DSQ8121
7Nga Daniil KvyatDNS9Ret9104912624106135Ret471095
8Úc Daniel Ricciardo6109675F1310Ret3FRet82F151510511692
9México Sergio Pérez10131181371199Ret5671235812578
10Đức Nico Hülkenberg714Ret131511867RetDNS7Ret6RetRet76758
11Pháp Romain GrosjeanRet117781210RetRet73Ret137RetRet108951
12Hà Lan Max VerstappenRet717Ret11Ret158Ret481289104991649
13Brasil Felipe Nasr5128121291611DNS111113102069Ret131527
14Venezuela Pastor MaldonadoRetRetRet15RetRet77Ret14RetRet128781110Ret27
15Tây Ban Nha Carlos Sainz Jr.9813Ret91012RetRetRetRet11910Ret713Ret1118
16Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Jenson Button11Ret14DNS168RetRetRet91414Ret169614141216
17Tây Ban Nha Fernando AlonsoRet1211RetRetRetRet1051318Ret111111Ret151711
18Thụy Điển Marcus Ericsson8Ret10141413141311101091114RetRet1216149
19Tây Ban Nha Roberto MerhiDNP1516171816Ret141215151613190
20Hoa Kỳ Alexander Rossi14181215180
21Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Will StevensDNPDNS1516171717Ret13161615151914Ret1617180
Đan Mạch Kevin MagnussenDNS0

Chú thích:

  •  – Tay đua không hoàn thành toàn bộ cuộc đua nhưng được xếp hạng vì đã hoàn thành hơn 90% của cuộc đua.

Bảng xếp hạng các đội đua[sửa | sửa mã nguồn]

Vị tríTay đuaSố xeAUSÚcMALMalaysiaCHNTrung QuốcBHRBahrainESPTây Ban NhaMONMonacoCANCanadaAUTÁoGBRVương quốc Liên hiệp Anh và Bắc IrelandHUNHungaryBELBỉITAÝSINSingaporeJPNNhật BảnRUSNgaUSAHoa KỳMEXMéxicoBRABrasilABUCác Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhấtSố điểm
1Đức Mercedes623F231P121F282F1742PRetP2PF1PF1P1P703
441PF2P1PF1P2F3P1P2P1PF6P1P1PFRet1F1122F2F
2Ý Ferrari531353254311221P32F3Ret34428
7Ret442F564FRet8Ret75348RetRet43
3Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Williams-Mercedes19465106156341263Ret174Ret6DSQ8257
77DNS56441435513945512Ret3513
4Áo Red Bull-Renault36109675F1310Ret3FRet82F1515105116187
26DNS9Ret9104912624106135Ret4710
5Ấn Độ Force India-Mercedes1110131181371199Ret56712358125136
27714Ret131511867RetDNS7Ret6RetRet767
6Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Lotus-Mercedes8Ret117781210RetRet73Ret137RetRet108978
13RetRetRet15RetRet77Ret14RetRet128781110Ret
7Ý Toro Rosso-Renault33Ret717Ret11Ret158Ret481289104991667
559813Ret91012RetRetRetRet11910Ret713Ret11
8Thụy Sĩ Sauber-Ferrari98Ret10141413141311101091114RetRet12161436
125128121291611DNS111113102069Ret1315
9Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland McLaren-Honda14Ret1211RetRetRetRet1051318Ret111111Ret151727
20DNS
2211Ret14DNS168RetRetRet91414Ret1696141412
10Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland Marussia-Ferrari28DNPDNS1516171717Ret13161615151914Ret1617180
531418121518
98DNP1516171816Ret14121515161319

Chú thích:

  •  – Tay đua không hoàn thành toàn bộ cuộc đua nhưng được xếp hạng vì đã hoàn thành hơn 90% của cuộc đua.

Chú thích mở rộng cho các bảng trên:

Chú thích
MàuÝ nghĩa
VàngChiến thắng
BạcHạng 2
ĐồngHạng 3
Xanh láCác vị trí ghi điểm khác
Xanh dươngĐược xếp hạng
Không xếp hạng, có hoàn thành (NC)
TímKhông xếp hạng, bỏ cuộc (Ret)
ĐỏKhông phân hạng (DNQ)
ĐenBị loại khỏi kết quả (DSQ)
TrắngKhông xuất phát (DNS)
Chặng đua bị hủy (C)
Không đua thử (DNP)
Loại trừ (EX)
Không đến (DNA)
Rút lui (WD)
Không tham gia (ô trống)
Ghi chúÝ nghĩa
PGiành vị trí pole
Số mũ
cao
Vị trí giành điểm
tại chặng đua nước rút
FVòng đua nhanh nhất

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Rothwell, James (26 tháng 10 năm 2015). “Lewis Hamilton wins US Grand Prix 2015 and clinches third world title”. The Telegraph. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2015.
  2. ^ “Pascal Wehrlein: Aus der DTM in die Formel 1?”. Motorsport-Total.com. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  3. ^ “Buemi zwei weitere Jahre Red-Bull-Ersatzfahrer”. Motorsport-Total.com. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  4. ^ a b Markus Lüttgens (29 tháng 9 năm 2015). “GP2-Pilot Gasly neuer Ersatzfahrer von Red Bull”. Motorsport-Total.com.
  5. ^ Sven Haidinger (28 tháng 1 năm 2015). “Entwicklungsfahrer: Red-Bull-Junior Lynn zu Williams”. Motorsport-Total.com.
  6. ^ “Formel 1: Adrian Sutil 2015 Reservefahrer bei Williams – Sutil neuer Reservefahrer bei Williams”. sport1.de. 26 tháng 3 năm 2015.
  7. ^ “Offiziell: Wolff steigt bei Williams zur Testfahrerin auf”. Motorsport-Total.com. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  8. ^ a b “SF15-T”. Scuderia Ferrari. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2017.
  9. ^ a b c Philipp Schajer (19 tháng 12 năm 2014). “Formel 1 – Ferrari engagiert Vergne als Testfahrer – De la Rosa verlässt das Team”. Motorsport-Magazin.com.
  10. ^ “Gutierrez wird Test- und Ersatzfahrer bei Ferrari”. Motorsport-Total.com. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  11. ^ Kerstin Hasenbichler (11 tháng 12 năm 2014). “Formel 1 – McLaren bestätigt Button & Alonso”. Motorsport-Magazin.com. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2014.
  12. ^ “McLaren Formula 1”. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  13. ^ “Vandoorne to continue with McLaren”. Pitpass. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  14. ^ “Friday's FIA Press Conference – Great Britain”. Formula One World Championship Limited. 3 tháng 7 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2016. VM: Well, all of us have been eagerly awaiting the British Grand Prix and the launch of our new B-spec car.
  15. ^ “Alfonso Celis neuer Entwicklungsfahrer bei Force India”. Motorsport-Total.com. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  16. ^ “Force India verpflichtet GT-Piloten als Entwicklungsfahrer”. Motorsport-Total.com. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  17. ^ “Formel 1”. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  18. ^ “Lotus F1 team signs Carmen Jorda to development driver role” (bằng tiếng Anh). autosport.com. 26 tháng 2 năm 2015.
  19. ^ “Geburtstagsgeschenk Formel 1: Palmer wird Lotus-Testpilot”. Motorsport-Total.com. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  20. ^ Collantine, Keith (12 tháng 3 năm 2015). “Manor F1 car appears in Australia”. F1 Fanatic. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2015.
  21. ^ “Manor Marussia F1 Team partners with Airbnb. Helping race fans around the globe feel at home anywhere”. ManorMarussiaF1TeamMedia. 4 tháng 6 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2015.
  22. ^ “Manor F1 Team on provisional 2015 entry list”. ESPN Sport UK. 5 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2014.
  23. ^ Anderson, Ben; Noble, Jonathan (20 tháng 2 năm 2015). “Manor F1 team agrees to use 2014 Ferrari engines”. Autosport. Haymarket Publications. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2015.
  24. ^ “Manor-Marussia: King und Haryanto testen in Abu Dhabi”. Motorsport-Total.com. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |hrsg= (gợi ý |publisher=) (trợ giúp); Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  25. ^ “Manor F1 Team: Also announced today is @42jordanking in the role of Development Driver”. twitter.com. 10 tháng 3 năm 2015.
  26. ^ “Fabio Leimer wird Ersatzpilot bei Manor-Marussia”. Motorsport-Total.com. Truy cập 2 tháng 12 năm 2023. Đã bỏ qua tham số không rõ |titel= (gợi ý |title=) (trợ giúp)
  27. ^ Heiko Stritzke (31 tháng 12 năm 2014). “Formel 1 – Marciello wird dritter Mann bei Sauber”. Motorsport-Magazin.com.
  28. ^ “McLaren Formula 1 - McLaren-Honda announces Fernando Alonso & Jenson Button for 2015”. web.archive.org. 12 tháng 7 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023.
  29. ^ “Alonso to miss Australian Grand Prix | F1 news | Motorsport.com”. web.archive.org. 2 tháng 4 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  30. ^ “Welcome Sebastian – Vettel and Raikkonen 2015 driver pairing | Scuderia Ferrari”. web.archive.org. 8 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  31. ^ “NEW TEAM DRIVER LINE UP FOR 2015 | Infiniti Red Bull Racing”. web.archive.org. 12 tháng 5 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  32. ^ “Jean-Eric Vergne becomes test driver for the Scuderia”. Ferrari.com. 19 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 12 năm 2014.
  33. ^ Freeman, Glenn (28 tháng 11 năm 2014). “Carlos Sainz Jr joins Max Verstappen at Toro Rosso for F1 2015”. Autosport. Haymarket Publications. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2014.
  34. ^ “Verstappen to race for Toro Rosso in 2015”. GPUpdate.net. JHED Media BV. 18 tháng 8 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2014.
  35. ^ “Sauber F1 team signs ex-Caterham driver Marcus Ericsson for 2015”. Autosport. Haymarket Publications. 1 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2014.
  36. ^ “Sauber F1 Team announces Felipe Nasr as its driver for 2015”. Sauber. 5 tháng 11 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2014.
  37. ^ “Ferrari sign Esteban Gutierrez as test driver”. British Broadcasting Corporation. 15 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2014.
  38. ^ Noble, Jonathan (26 tháng 3 năm 2015). “Adrian Sutil becomes Williams Formula 1 reserve driver”. Autosport. Haymarket Publications. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2015.
  39. ^ “Will Stevens secures Manor Formula 1 race seat”. Autosport. Haymarket Publications. 25 tháng 2 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2015.
  40. ^ Freeman, Glenn (9 tháng 3 năm 2015). “Roberto Merhi to race for Manor F1 team in Australian Grand Prix”. Autosport. Haymarket Publications. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 3 năm 2015.
  41. ^ “Indy Lights – Max Chilton”. Indycar.com. 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 19 tháng 8 năm 2015.
  42. ^ “Jules Bianchi's promising F1 career ends in tragedy after earlier hopes of joining Ferrari's ranks”. abc.net.au. Australian Broadcasting Corporation. 17 tháng 7 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2015.
  43. ^ “American racing driver Alexander Rossi to make F1 debut this weekend”. Fox Sports Interactive Media. 16 tháng 9 năm 2015. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2015.
  44. ^ “Kamui Kobayashi joins Japanese Super Formula for 2015 | Formula 1 | Formula 1 news, live F1 | ESPN F1”. web.archive.org. 9 tháng 2 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  45. ^ “Honda confirm F1 return with McLaren in 2015 · F1 Fanatic”. web.archive.org. 11 tháng 4 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  46. ^ “Lotus F1 team confirms Mercedes engine switch for 2015 - F1 news - AUTOSPORT.com”. web.archive.org. 14 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  47. ^ “BBC Sport - Marussia team could make Formula 1 return this season”. web.archive.org. 11 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  48. ^ “Caterham Formula 1 team's assets put up for sale by administrators - F1 news - AUTOSPORT.com”. web.archive.org. 10 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  49. ^ “World Motor Sport Council 2014 – Doha”. Fédération Internationale de l'Automobile. 3 tháng 12 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2014.
  50. ^ “Formel-1-Kalender 2014: 22 Rennen im Plan”. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2023.
  51. ^ “Aus für Nürburgring: Formel 1 2015 in Hockenheim”. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2023.
  52. ^ “FIA-Weltrat bestätigt: 2015 keine Formel 1 in Deutschland!”. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2023.
  53. ^ Collins, Sam (5 tháng 3 năm 2013). “Renault RS34 – the future of Formula 1”. Racecar Engineering. Chelsea Magazines Ltd. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2013.
  54. ^ Saward, Joe (8 tháng 7 năm 2014). “Changing the F1 engines of today”. joeblogsf1. WordPress. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
  55. ^ “Formula 1 chiefs move to avoid ugly noses in 2015 - F1 news - AUTOSPORT.com”. web.archive.org. 2 tháng 1 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  56. ^ “World Motor Sport Council 2014 - Doha | Federation Internationale de l'Automobile”. web.archive.org. 19 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  57. ^ “The new F1 rules for 2015 at a glance · F1 Fanatic”. web.archive.org. 10 tháng 7 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  58. ^ “BBC Sport - Bahrain Grand Prix: Why sparks can make F1 great again”. web.archive.org. 23 tháng 4 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  59. ^ a b c d e “World Motor Sport Council 2014 - Doha | Federation Internationale de l'Automobile”. web.archive.org. 19 tháng 3 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  60. ^ “World Motor Sport Council 2015 - Mexico | Federation Internationale de l'Automobile”. web.archive.org. 11 tháng 7 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  61. ^ “Reaktion auf Bianchi-Unfall: Formel-1-Startzeiten verlegt”. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 22 tháng 2 năm 2023.
  62. ^ “Lewis Hamilton fears starts will be made even worse by F1 rule change - Telegraph”. web.archive.org. 8 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2023.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  63. ^ Noble, Jonathan (18 tháng 2 năm 2015). “F1 helmet design changes in-season to be banned”. Autosport. Haymarket Publications. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 18 tháng 2 năm 2015.
  64. ^ F1i.com (30 tháng 1 năm 2015). “2015 F1 Sporting Regulations: Sporting some changes”. F1i.com (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2023.
  65. ^ Jones, Matt. “Australian F1 Grand Prix 2015 Results: Winner, Standings, Highlights, Reaction”. Bleacher Report (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2023.
  66. ^ a b “2015 Australian Grand Prix”. GP Racing Stats (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2023.
  67. ^ “Kollision, Strafe und Taktik bringen Hülkenberg um Punkte”. Motorsport-Total.com (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.
  68. ^ “Formula 1 2015 Malaysian Grand Prix results”. Formula 1 Statistics (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.
  69. ^ “Vettel stuns Mercedes with Ferrari win at Sepang”. Formula 1® - The Official F1® Website (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.
  70. ^ Weaver, Paul (29 tháng 3 năm 2015). “Sebastian Vettel wins F1's Malaysia GP to leave Lewis Hamilton frustrated”. The Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.
  71. ^ a b “Max Verstappen: Youngest Ever to Score F1 Points”. Red Bull (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2023.
  72. ^ a b McVeigh, Niall (12 tháng 4 năm 2015). “Chinese Grand Prix: F1 2015 – as it happened”. the Guardian (bằng tiếng Anh). ISSN 0261-3077. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  73. ^ a b “Standings”. Formula 1® - The Official F1® Website (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  74. ^ “Race Results”. Racing-Reference (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  75. ^ “Constructor Standings after the 2015 Chinese Grand Prix”. Twitter. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2023.
  76. ^ “Classifications”. Fédération Internationale de l'Automobile. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2021.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Gi%E1%BA%A3i_%C4%91ua_xe_C%C3%B4ng_th%E1%BB%A9c_1_2015