Wiki - KEONHACAI COPA

The Hunting Party (album)

The Hunting Party
Một cung thủ đơn sắc đang chỉ và nhắm bắn hướng xuống được đặt trên nền chủ yếu là màu trắng và xám nhạt.
Album phòng thu của Linkin Park
Phát hành13 tháng 6 năm 2014 (2014-06-13)
Thu âmTháng 5 năm 2013 – Tháng 4 năm 2014
Phòng thu
Thể loại
Thời lượng45:12
Hãng đĩa
Sản xuất
Thứ tự Thứ tự album phòng thu của Linkin Park
Living Things
(2012)
The Hunting Party
(2014)
One More Light
(2017)
Bìa bản đĩa than
Đĩa đơn từ The Hunting Party
  1. "Guilty All the Same"
    Phát hành: 7 tháng 3 năm 2014
  2. "Until It's Gone"
    Phát hành: 6 tháng 5 năm 2014
  3. "Wastelands"
    Phát hành: 1 tháng 6 năm 2014
  4. "Rebellion"
    Phát hành: 4 tháng 6 năm 2014
  5. "Final Masquerade"
    Phát hành: 10 tháng 6 năm 2014

The Hunting Party là album phòng thu thứ sáu của ban nhạc rock từ Mỹ Linkin Park. Album được các thành viên ban nhạc là Mike ShinodaBrad Delson sản xuất, và được phát hành bởi Warner Bros. Records cùng Machine Shop vào ngày 13 tháng 6 năm 2014. Đây là album đầu tiên không có Rick Rubin làm nhà sản xuất kể từ album Meteora (2003). Trước đó Rick Rubin đã sản xuất 3 album phòng thu tiền nhiệm của ban nhạc. Tựa đề The Hunting Party (Toán Thợ Săn) là một phép ẩn dụ theo ngữ cảnh: Linkin Park là một toán thợ săn mang về năng lượng và linh hồn của nhạc rock.

Về mặt phong cách, The Hunting Party đã chuyển hướng khỏi phong cách rock điện tử và các âm hưởng thử nghiệm trong hai album phòng thu trước đó của ban nhạc, A Thousand Suns (2010) và Living Things (2012), để đánh dấu sự trở lại thể loại nu metal của ban nhạc. Album được Shinoda mô tả đơn giản là "một bản thu âm nhạc rock", được dùng làm lời khẳng định của ban nhạc để chống lại các ban nhạc đi theo thể loại nhạc thịnh hành trùng lặp và active rock, họ bị ông cáo buộc là "chỉ biết thu mình bắt chước các ban nhạc khác". Được đóng gói trong tranh vẽ của Brandon Parvini dựa trên bản vẽ gốc của James Jean, album mất chưa tới một năm để thu âm và sản xuất, với các sản phẩm được sáng tác một cách ngẫu hứng bởi ban nhạc. Album cũng có sự xuất hiện của khách mời như Page Hamilton của Helmet, Daron Malakian của System of a Down, Tom Morello của Rage Against the Machine, và Rakim, đánh dấu lần đầu tiên Linkin Park hợp tác với các nghệ sĩ khác trong một album phòng thu.

Album đã được quảng bá bởi ban nhạc và Warner Bros, với nhiều đoạn giới thiệu quảng cáo và các cuộc phỏng vấn được sản xuất và xuất bản trước khi phát hành album, cũng như các bữa tiệc nghe của album được tổ chức trên toàn thế giới vào nhiều ngày. Ban nhạc đã khởi động chuyến lưu diễn Carnivores Tour, một chuyến lưu diễn kép với Thirty Seconds to Mars, cũng như The Hunting Party Tour, để hỗ trợ cho album. Năm đĩa đơn từ The Hunting Party đã được phát hành; "Guilty All the Same" vào tháng 3 năm 2014, "Until It's Gone" vào tháng 5 năm 2014, "Wastelands", "Rebellion" và "Final Masquerade" vào tháng 6 năm 2014.

Album nhận được đánh giá tích cực từ các nhà phê bình, họ đã ca ngợi sự trở lại của ban nhạc với âm hưởng rock nặng hơn trong các album cũ của họ. Nó ra mắt ở vị trí thứ ba trên Billboard 200 Mỹ, và đã nằm ở vị trí thứ tư trên danh sách "20 Album hay nhất năm 2014" của Revolver. Album đã được chứng nhận Bạch kim tại Hoa Kỳ nhờ doanh số một triệu bản.[1]

Hoàn cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Linkin Park biểu diễn tại Soundwave 2013, trong Living Things World Tour.

Lần lượt vào năm 2010 và 2012, Linkin Park đã phát hành album phòng thu thứ tư và thứ năm A Thousand SunsLiving Things. Các album, cả hai đều do Rick RubinMike Shinoda sản xuất, đã đánh dấu sự thay đổi trong định hướng âm nhạc của ban nhạc từ âm hưởng mang hơi hướng nu metal, dễ dàng nhận biết với Hybrid Theory (2000) và Meteora (2003), sang một âm hưởng thử nghiệm và "tân tiến" hơn.[2] Các album có âm hưởng electronica đã thành công về mặt thương mại.

Quá trình sản xuất album phòng thu thứ sáu của ban nhạc bắt đầu sau một loạt các sự kiện, trong đó Shinoda quyết định loại bỏ âm hưởng electronic và thử nghiệm của hai album phòng thu trước đó của ban nhạc. Ban đầu Shinoda đã thu âm và sản xuất các bản demo, nó tiếp tục kế thừa các âm hưởng của A Thousand SunsLiving Things, nhằm mục đích cho album phòng thu thứ sáu của ban nhạc, trong chuyến lưu diễn Living Things World Tour của ban nhạc vào năm 2013. Ông đã giới thiệu các bản demo cho các thành viên trong ban nhạc của mình, nhận được sự đón nhận tích cực, và cũng giới thiệu cho Rubin, người cũng tỏ ra thiện cảm với các bản demo, mặc dù ông đã mô tả với Shinoda là chúng nghe "bắt tai" hơn mong đợi. Tuy nhiên, Shinoda, sau khi nghe lại các bản demo sau khi kết thúc chuyến lưu diễn, cảm thấy có sự tiêu cực mạnh mẽ đối với các sản phẩm của mình, đặc biệt là sau những phát biểu của Rubin. Trong một cuộc phỏng vấn với Warner Music, Shinoda đã nói rằng “Tôi thậm chí không tin vào thứ âm nhạc này. Đây là một sai lầm; Tôi không thích những thứ tôi đang tạo ra. Tôi đã khởi động lại quy trình và loại bỏ tất cả và bắt đầu làm mới." [3]

Sau A Thousand SunsLiving Things, những album được tạo ra với mục đích bỏ lại những âm hưởng "không còn mới mẻ và không còn hay ho nữa",[4] thì album phòng thu thứ sáu của ban nhạc được tiếp cận theo hướng trở lại với âm hưởng ban đầu của ban nhạc, khi âm hưởng electronic của hai album phòng thu trước đó của họ được loại bỏ để thay thế cho nhạc cụ rock truyền thống của ban nhạc.[5] Sử dụng Hybrid Theory làm bản mẫu, ban nhạc đã sáng tác và thu âm nó trong bối cảnh thời hiện đại, vào năm 2014 chứ không phải năm 2000.[6] Tay guitar Brad Delson đã nói đùa rằng album là một "Hybrid Theory phiên bản khác" và "có thể là tiền truyện của nó", vì album được lấy cảm hứng từ các nghệ sĩ mà ban nhạc đã lắng nghe trước khi họ bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của mình. Shinoda nói với Rolling Stone về những ý tưởng xung quanh The Hunting Party: "Chúng tôi không phải là những đứa trẻ 18 tuổi đang tạo ra một đĩa nhạc ồn ào - chúng tôi là những người trưởng thành 37 tuổi đang tạo ra một đĩa nhạc ồn ào. Và điều khiến một người đàn ông 37 tuổi tức giận khác với điều khiến chúng tôi tức giận hồi đó."

Sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]

Ban nhạc đã thực hiện một phương pháp khác trong việc sáng tác sản phẩm mới cho The Hunting Party trái ngược với các album trước của họ. Đối với tất cả các album trước đây, họ sử dụng phương pháp truyền thống là biên soạn, demo và thu âm lại trong phòng thu, thì thay vào đó, các bài hát được biên soạn và phổ nhạc trong chính phòng thu, mà không có chất liệu nào được biên soạn hoặc phổ nhạc trước. Delson đã nói về các phương pháp được sử dụng trong album này trong một cuộc phỏng vấn với Premier Guitar, nói rằng "Một việc làm không chủ ý có thể lại là âm hưởng hay nhất mà tôi nghĩ ra trong cả ngày, và biết cách để cho phép những sai lầm đó xảy ra và định hình chúng có thể tạo ra vài bản nhạc tuyệt vời." [7]

Album được các nhà phê bình chuyên nghiệp mô tả là alternative metal,[8][9][10] nu metal,[11] hard rock,[12] rap rock [13]rap metal [14]. Shinoda mô tả âm hưởng của album giống như một phong cách thu âm rock của những năm 1990: "Nó là một đĩa nhạc rock. Nó ồn ào và nó là nhạc rock, nhưng không phải theo kiểu như bạn đã từng nghe trước đây, mà là kiểu nhạc Hardcore-punk-thrash của thập niên 90".[15] Ông mô tả tình trạng "yếu kém" của nhạc rock hiện đại trong ngành công nghiệp âm nhạc đóng vai trò làm nguồn cảm hứng để thu âm một album rock nặng đô hơn; để cố gắng đưa âm hưởng của những năm 1990 trở lại vị trí hàng đầu. Shinoda chỉ trích tình trạng hiện đại của đài phát thanh nhạc alternative, nói rằng "Có quá nhiều kiểu nhạc như HAIM hoặc CHVRCHES hoặc Vampire Weekend khiến tôi thấy bị bội thực. Điều tôi khao khát không phải như vậy. Tôi bật đài nhạc rock ở LA và tôi cứ như đang nghe nhạc thương mại của Disney”.[16] Điều này kéo theo một phản hồi từ CHVRCHES, với ca sĩ chính của họ, Lauren Mayberry gọi bình luận của Shinoda là "một sự đào bới vô nghĩa." Bennington đồng ý với nhận xét của Shinoda, ông nói, "Các ban nhạc tôi đã lắng nghe khi tôi lớn lên đều thực sự sáng tạo — Jane's Addiction, Alice in Chains, Nirvana... Còn những ban nhạc như Refreshments và Rembrandts, thứ âm nhạc của họ khiến tôi điên máu cho đến hôm nay. Và điều tương tự đang xảy ra bây giờ, khi có đầy kiểu nhạc như nhạc phim 'Friends' hay 'The Wizards of Waverly Place' vậy.” [17]

Trong một cuộc phỏng vấn với MusicRadar, Delson nói rằng album sẽ có nhiều màn độc tấu guitar hơn. Ông nói thêm rằng "những pha độc tấu sẽ đến từ một người đã từng phát biểu trong quá khứ rằng mình căm ghét chúng. Không phải tôi ghét chúng với tư cách là một người cảm thụ âm nhạc; Tôi chỉ không muốn chơi tí nào; Tôi trốn tránh phần độc tấu guitar. Ngay từ đầu, tôi đã cảm thấy những bài hát chúng tôi tạo ra về mặt nghệ thuật không cần độc tấu guitar. Với tôi, những bài hát mới này luôn cần có những phần độc tấu. Tôi cảm thấy mỗi bài hát đều cần có một phần." [18]

Thu âm[sửa | sửa mã nguồn]

The Hunting Party được thu âm tại Larrabee Sound Studios, tọa lạc ở Hollywood, Los Angeles. Trong quá trình thu âm cho album phòng thu thứ sáu của ban nhạc, họ sẽ dành 5 hoặc 6 ngày một tuần tại Larrabee Studios để làm việc với đĩa nhạc. Một phần của Hunting Party cũng được thu âm tại EastWest Studios, cũng nằm ở Hollywood. Ở đó, tay trống Rob Bourdon và Shinoda sẽ thu âm phần trốngbộ gõ cho album. Ban nhạc cũng sẽ thỉnh thoảng thu âm các sản phẩm khác cho album tại EastWest.[7]

Trong một cuộc phỏng vấn với Rolling Stone, Shinoda nói rằng album này rất khó đối với tay trống Rob Bourdon, khi ông phải thúc đẩy bản thân để đáp ứng tốc độ và phong cách âm nhạc. Ông nhận xét rằng “Đây có lẽ là thứ khó nhất mà cậu ấy từng chơi trong tất cả album của chúng tôi. Cậu ấy phải nỗ lực cả về thể xác để đạt được mục đích. Cậu ấy phải chạy bộ, nâng tạ, tập với huấn luyện viên", cuối cùng Bourdon cảm thấy rằng ông đã trở thành một tay trống giỏi hơn vào cuối mỗi ngày sau khi thu âm.[6] Shinoda sau đó đã nói với tạp chí Q rằng Bourdon đã phải tìm đến sự giúp đỡ của một bác sĩ chỉnh hình sau khi ông bị gãy lưng lúc đang thu âm cho album mới. Shinoda nói với Q rằng “Rob đã tự hủy hoại mình. Cậu ấy chơi 10 giờ mỗi ngày trong 7 ngày liền và bị gãy lưng." [19]

Các bộ khuếch đại nhãn hiệu Orange, Bogner và ENGL đã được Delson sử dụng trong quá trình thu âm, mang lại một "âm hưởng cốt lõi" mà được kỹ sư Ethan Mates mô tả là "một bộ sưu tập nhỏ các âm cốt lõi được sử dụng một cách nhất quán trong suốt đĩa nhạc". Amply thương hiệu Chandler cũng được sử dụng cho việc lồng tiếng đè và "phần tông cao hơn".[20]

Delson đã đóng góp rất nhiều vào việc sản xuất The Hunting Party.

Ca sĩ chính Chester Bennington đã gia nhập muộn trong quá trình thu âm của album, khi ông đã được chọn để thay thế Scott Weiland của ban nhạc Stone Temple Pilots, sau đó tiếp tục thu âm High Rise và lưu diễn cùng ban nhạc trong hầu hết năm 2013.[21][22] Cuối cùng, khi ông tham gia cùng ban nhạc trong phòng thu, ông đã rất ngạc nhiên khi thấy ban nhạc đã chuyển sang âm hưởng rock nặng hơn của họ. Bennington đã nói trong một cuộc phỏng vấn với Kerrang!: "Mike đã sáng tác rất nhiều trong khi tôi đi lưu diễn với Stone Temple Pilots vào năm ngoái. Khi tôi về đến nhà, có rất nhiều thứ để tôi bắt kịp, và cậu ấy cứ chơi cho tôi nghe vài bản còn tôi thì cứ: 'Anh bạn, thật tuyệt vời!' Tôi thực sự ngạc nhiên về độ nặng đô của nó".[23]

Album có bốn nghệ sĩ khách mời; Rakim từ bộ đôi hip hop Eric B. & Rakim trong "Guilty All the Same", Page Hamilton từ nhóm nhạc alternative metal Mỹ Helmet trong "All for Nothing", Daron Malakian từ System of a Down cho bài hát "Rebellion" và Tom Morello của Rage Against the Machine nổi tiếng với bài hát "Drawbar".[24][25] Bennington nhận xét về những sự hợp tác, nói rằng "Chúng tôi thực sự cảm thấy chúng tôi cần được truyền cảm hứng và chuyển sang một hướng đi khác. Tôi nhớ cái lúc chúng tôi đưa được Page vào, lúc đầu Mike có viết một đoạn điệp khúc và hát nó, và giọng của cậu ấy có tông điệu này, và nó không giống với bất cứ thứ gì tôi từng nghe từ cậu ấy trước đây. Và tôi đã nói, "Anh bạn, nghe thật điên rồ, bài này nghe giống như của Helmet vậy! Nó tuyệt thật!" Và chúng tôi hỏi, "Anh bạn, tại sao chúng ta không thử xem liệu có thể đưa Page vào không?".[26]

Đóng gói[sửa | sửa mã nguồn]

Ảnh bìa[sửa | sửa mã nguồn]

Bìa album cho The Hunting Party là một bức tranh mô hình 3D vẽ bởi Brandon Parvini, người trước đây đã thiết kế các ảnh bìa cho Living Things và các đĩa đơn của ban nhạc trong chu kỳ phát hành album. Bức tranh dựa trên một bản vẽ gốc, mang tên "Archer" ("Cung thủ"), của nghệ sĩ thị giác James Jean.[27] Đây là một trong nhiều bức tranh của Jean được sử dụng cho việc đóng gói album, trong đó cũng có các phiên bản deluxe của album, một bản in thạch bản, áo phông và một sách hội họa dài 36 trang của anh.[28]

Linkin Park đã thổ lộ rằng họ đã hâm mộ các tác phẩm của James Jean được một thời gian, mô tả các cuộc thảo luận giữa ban nhạc và Jean đã "bắt đầu một cách tự nhiên".[29] Joe Hahn là giám đốc sáng tạo cho ảnh bìa của The Hunting Party, ông đã hướng dẫn Jean "tạo ra một vũ trụ nơi sinh sống của những nhân vật mạnh mẽ và định hình bởi những cảnh quan kỳ lạ", với một khái niệm chung là phải có một "nhân vật" duy nhất cho mỗi ca khúc trong album. Delson cũng đóng góp ý tưởng về "những cuộc đấu tranh nội tâm và ngoại tâm", được miêu tả một cách ẩn dụ trên một chiến trường, nơi những hình ảnh như "xé thịt và biến đổi thành các hình dạng khác nhau cũng như các mảnh tinh thể mềm tuôn trào từ vật chất hữu cơ" sẽ lặp lại. Shinoda giải thích: "Chúng tôi cố gắng tiếp cận nghệ thuật của mình — từ đóng gói, hàng hóa, lưu diễn, video, đến bất cứ thứ gì — một cách tổng thể. Tất cả các thành phần được kết nối với nhau và bằng cách tạo ra hình ảnh tuyệt vời có thể được sử dụng trong nhiều bối cảnh, chúng tôi có thể đưa người hâm mộ vào một vũ trụ nhất quán và duy nhất cho mỗi bản phát hành. Nó luôn là một công việc không bao giờ hoàn thiện, nhưng tôi cảm thấy như chúng tôi đã học được rất nhiều điều và tiếp tục cải tiến nó mỗi lần. "

James Jean đã được Shinoda và Delson mời đến nghe bản nhạc thô của ban nhạc được tạo ra từ rất sớm trong buổi thu âm cho The Hunting Party. Anh chấp nhận sự thay đổi hướng đi âm hưởng của ban nhạc từ A Thousand SunsLiving Things, và được truyền cảm hứng từ sản phẩm của họ để tạo ra các ảnh bìa "tràn đầy năng lượng [của ban nhạc] cũng như lý do của họ cho sự thay đổi đó". Tuy nhiên, Joe Hahn đã cấm Jean nghe thêm bất kỳ sản phẩm nào sau khi Jean đã chơi một số bài hát từ trí nhớ bằng piano của ông.[29] Jean ban đầu đã phác thảo từng ảnh bìa riêng lẻ cho The Hunting Party trong một cuốn sổ phác thảo cá nhân. Mức độ tối thiểu của hình ảnh là có chủ đích, vì các ảnh bìa cuối cùng sẽ được biến thành các bức tranh mô hình 3D, nơi ánh sáng và kết cấu sẽ được thêm vào mỗi nhân vật. 20 ảnh bìa đã được Jean thực hiện trong khoảng thời gian một tháng để Brandon Parvini và nhóm của ông chuyển thể thành các bức tranh mô hình 3D, với Parvini sẽ chọn chính xác ảnh bìa nào sẽ được làm mẫu cho The Hunting Party.

Tiêu đề[sửa | sửa mã nguồn]

Tiêu đề của album, The Hunting Party, là một phép ẩn dụ theo ngữ cảnh. Album là sự trở lại với âm hưởng rock nặng hơn vào thời đầu của ban nhạc, thể hiện mong muốn của ban nhạc không chỉ tạo ra thứ gì đó khác biệt với các ban nhạc rock khác mà còn mang lại "năng lượng và linh hồn" của chính nhạc rock, và Linkin Park sẽ là toán thợ săn đi tìm năng lượng và linh hồn đó.[30] Shinoda đã nói rõ hơn về tiêu đề của album trong một cuộc phỏng vấn với Kerrang!: "Chúng tôi phát ngán với việc các ban nhạc bây giờ chỉ biết bắt chước người khác và thu mình suốt bấy lâu nay, vì vậy tên album xuất phát từ một lý thuyết về việc văn hóa đã trở nên quá thụ động, mọi người chỉ đứng quanh chờ đợi cơ hội đến với họ thay vì đi ra ngoài và tự giành lấy chúng cho bản thân. Tôi biết rằng sẽ luôn có những ban nhạc nặng ký hơn chúng tôi, nhưng The Hunting Party kể về việc Linkin Park bước ra ngoài ánh sáng và giành lấy cơ hội cho chính mình." [23] Cảm hứng cho tiêu đề này đến từ một bài báo mà Shinoda đọc trên mạng về mối quan tâm của một nhà văn Nhật Bản về xã hội đang phát triển ngày nay. Nhà văn đã mô tả những người đàn ông trẻ tuổi ngày nay là "động vật ăn cỏ", và giải thích họ thực chất chỉ đang được chăn thả, chờ đợi cơ hội đến với họ, thay vì săn đón chúng.[29]

Quảng bá[sửa | sửa mã nguồn]

Linkin Park đã bắt tay với ban nhạc rock Mỹ Thirty Seconds to Mars trong chuyến lưu diễn Carnivores Tour.

Vào ngày 6 tháng 3 năm 2014, ban nhạc ra mắt "Guilty All the Same", có sự góp mặt của Rakim, thông qua Shazam.[31] Ca khúc sau đó được Warner Bros. phát hành vào ngày 7 tháng 3 năm 2014 làm đĩa đơn chính quảng bá cho album phòng thu thứ sáu chưa được thông báo lúc đó của ban nhạc. Một video âm nhạc cho "Guilty All the Same" cũng được công chiếu trên YouTube vào ngày 25 tháng 3 năm 2014. Video âm nhạc là sự tiếp nối của sự hợp tác giữa ban nhạc với Xbox, nó được tạo ra hoàn toàn bằng engine trong trò chơi của trò chơi điện tử thể loại sandbox Project Spark năm 2014 của Team Dakota.[32]

Trong khi thông tin về album phòng thu thứ sáu của Linkin Park đã bị rò rỉ từ trước, bao gồm cả tiêu đề và ngày phát hành của album,[33][34] The Hunting Party đã chính thức được ban nhạc và Warner Bros. tiết lộ ngày 9 tháng 4 năm 2014.[5] Danh sách ca khúc của album cũng được Shinoda và đội ngũ quản lý của Linkin Park công bố vào ngày 27 tháng 4 năm 2014.[35] "Until It's Gone" trở thành ca khúc thứ hai được công bố và được phát hành làm đĩa đơn thứ hai của album vào ngày 6 tháng 5 năm 2014. Đặt hàng trước cho album cũng được mở cùng ngày, với "Guilty all the Same" và "Until It's Gone" được phát hành sớm trên trang iTunes Store của album.[36] Một video âm nhạc cho "Until It's Gone" sau đó được phát hành vào ngày 11 tháng 6 năm 2014.[37] "Wastelands" được phát hành trên iTunes Store vào ngày 1 tháng 6 năm 2014,[38] và sau đó là đĩa đơn vào ngày 2 tháng 6.[39] Vào ngày 3 tháng 6 năm 2014, Bennington xuất hiện trên BBC Radio 1 của Zane Lowe để công chiếu bài hát, "Rebellion".[40] Một video lời bài hát chính thức đã được phát hành cùng với việc phát hành ca khúc trên iTunes Store cùng ngày. Sau đó, nó được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào ngày 4 tháng 6, và được phát hành dưới dạng đĩa đơn bán lẻ thứ tư của album vào ngày 13 tháng 10.[41][42] Vào ngày 8 tháng 6 năm 2014, Linkin Park ra mắt đĩa đơn thứ ba "Final Masquerade" trên MTV.[43][44]

Một buổi nghe album đã diễn ra vào ngày 23 tháng 5 năm 2014 tại Los Angeles.[45] Các buổi nghe thêm dành cho các thành viên Linkin Park Underground đã được công bố vào ngày 4 tháng 6 năm 2014 tại nhiều địa điểm khác nhau trên toàn thế giới.[46] Ngoài ra, ban nhạc đã tổ chức các phiên bản thứ mười và thứ mười một của hội nghị LPU, một hội nghị dành cho các thành viên Underground, trong suốt chu kỳ của album. Phiên bản thứ mười được tổ chức tại Trung tâm Nghệ thuật Biểu diễn Hồ DarienDarien, New York vào ngày 21 tháng 8 năm 2014,[47] và phiên bản thứ mười một được tổ chức tại Cynthia Woods Mitchell PavilionThe Woodlands, Texas vào ngày 5 tháng 9 năm 2014.[48]

Buổi biểu diễn trực tiếp đầu tiên của ban nhạc trong chu kỳ album The Hunting Party là vào ngày 24 tháng 5 năm 2014 tại lễ hội âm nhạc KMFA Day, trong đó họ là gương mặt chính. Ban nhạc đã lần đầu tiên biểu diễn "Guilty All the Same", "Until It's Gone" và "Wastelands".[49] Ban nhạc cũng đã biểu diễn với tư cách là gương mặt chính tại Rock in Rio Lisboa VI vào ngày 30 tháng 5 năm 2014. Trong buổi biểu diễn, Shinoda đã tung các đĩa đơn quảng cáo có chứa phiên bản phòng thu của "Wastelands" cho khán giả, vài ngày trước khi phát hành đĩa đơn chính thức của bài hát.[50] Linkin Park cũng chuẩn bị thực hiện chuyến lưu diễn kép ở Bắc Mỹ với Thirty Seconds to Mars để hỗ trợ cho cả The Hunting Party và album năm 2013 của Thirty Seconds to Mars là Love, Lust, Faith and Dreams.[51] Chuyến lưu diễn, được gọi là Carnivores Tour, kéo dài 25 ngày vào tháng 8 và tháng 9 năm 2014, với ban nhạc rock Mỹ AFI đóng vai trò mở màn trong toàn bộ chuyến lưu diễn.[52] Ban nhạc đã tổ chức một chuyến lưu diễn khác tên là "The Hunting Party Tour", bắt đầu vào ngày 30 tháng 5 năm 2014. Tuy nhiên, một số buổi biểu diễn trong tour đã bị hủy do Bennington bị gãy chân.[53][54]

Giới phê bình đón nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Khi phát hành, The Hunting Party nhìn chung đã nhận được những đánh giá tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc. Tại Metacritic, album đã nhận được số điểm tổng hợp là 65/100, có nghĩa "các bài đánh giá nói chung là tốt", dựa trên 15 bài đánh giá.[55] Dave Simpson của The Guardian đã đánh giá tích cực về album. Khi trao cho album ba ngôi sao, ông đã ca ngợi sự trở lại của ban nhạc với âm hưởng ban đầu của họ, nói rằng "mong muốn của Shinoda để tạo ra một đĩa nhạc punk rock và các phân đoạn electropop thanh tao hơn của Bennington không phải lúc nào cũng dễ dàng đi đôi với nhau, nhưng tiếng trống tuyệt vời của Rob Bourdon đồng nghĩa năng lượng sẽ không bao giờ vơi ”. Mặc dù đã gọi một số ca khúc của đĩa như "Until It’s Gone" là sáo rỗng, nhưng ông vẫn nhận xét tích cực về âm nhạc và ca từ của những ca khúc khác như "Drawbar" và "Rebellion". Ông viết thêm, "Linkin Park chắc chắn biết rõ khán giả của họ, nên trong album này đã điều hướng một cách khéo léo giữa khát vọng của chính họ và cộng đồng người hâm mộ, những người sẽ ăn mừng sự trở lại nhạc rock mạnh mẽ của ban nhạc." [56] Chris Schulz của The New Zealand Herald cũng đánh giá tích cực về album, mô tả đĩa nhạc "Ồn ào, tự phát và tự do", những đặc điểm mà theo ông, "thường không được liên kết với Linkin Park, nhưng The Hunting Party chỉ mất vài giây để chứng minh sản phẩm phát hành thứ sáu từ ban nhạc metal gốc California lại là một con thú vật khác ". Ông tiếp tục so sánh album với đĩa nhạc gần đây của ban nhạc, mô tả ba album trước đó của họ là "bị chùng xuống với những bản ballad quá đà và soft-rock giả tạo", trong khi The Hunting Party "tiếp tục với sứ mệnh rap-rock như năm 1999 một lần nữa." [13]

David Renshaw thuộc NME cho rằng "Nó có thể không hạ gục được bản sao của Mumford và Butler, nhưng ít nhất thì The Hunting Party là một nỗ lực tràn đầy năng lượng." Renshaw cũng ca ngợi vị trí khách mời của Daron Malakian, nhưng coi đóng góp của Tom Morello là một sự thất vọng. Nhà phê bình của AllMusic, Stephen Thomas Erlewine, nhận xét "Âm nhạc của họ không hề có cảm giác cạn kiệt ý tưởng, Linkin Park dường như đã tái sinh, chứng tỏ rằng có giá trị trong việc trở về cội nguồn." [57] Dan Epstein từ Revolver đã mô tả album là "... không chỉ là thứ khó nghe nhất và nặng nề nhất mà họ từng phát hành, mà còn là album đầu tiên của họ mang thứ hỏa lực guitar thực sự sẽ thu hút dân nghe nhạc rock vừa tính." Epstein kết luận bằng cách nói rằng đó là bằng chứng cho thấy các ban nhạc không cần phải mềm mại hơn để trưởng thành. Tại Billboard, Kenneth Partridge cho rằng "... những kẻ biệt kích rap-rock đến từ Cali này đã trở nên bất hảo, bắn tên lửa công kích về mọi đối tượng. Họ tấn công các công ty thu âm, các chính trị gia, các nhà hoạch định quy tắc, người yêu cũ và bất kỳ ai khác trong tầm ngắm, đồng thời khám phá lại thú vui man rợ của những cây đàn guitar siêu ồn ào." Neil McCormick từ The Daily Telegraph nói rằng "... nó đẹp, thú vị và đủ để cam kết rằng vẫn còn sức sống trong con thú nhạc rock." [58] Jordan Blum tại PopMatters đánh giá nó 5/10, mô tả nó là một "album đặc biệt", nhưng cho rằng nó "quá trùng lặp, tẻ nhạt và chung chung", so với ba album trước đó. Nhà phê bình Jon Dolan của Rolling Stone nói rằng "trong Album Six (Album thứ 6), họ đã trở lại với âm thanh retro-neo-aggro quá cuồng nhiệt cho các đài phát thanh rock hiện đại vào năm 1999... "

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

The Hunting Party đã được góp mặt trong một số danh sách "hay nhất" cuối năm. Album cũng được Loudwire đề cử cho "Album Rock của năm 2014", nhưng để thua Violence & Destruction của "Islander" với tỷ lệ chênh lệch phiếu bầu sát nút 0,29%. Trong khi đó ban nhạc đã giành được giải "Ban nhạc Rock xuất sắc nhất năm 2014" và "Màn biểu diễn trực tiếp xuất sắc nhất năm 2014". Bài hát Rebellion trong album đã nhận được đề cử cho "Bài hát Rock của năm 2014" nhưng nó đã thua "Painkiller" của Three Days Grace.[59]

Tạp chíQuốc giaGiải thưởngNămHạng
Kerrang!Vương quốc AnhTop 50 Album Rock của năm 2014201436 [60]
LoudwireHoa KỳAlbum nhạc Rock xuất sắc nhất năm 2014201419 [61]
RevolverHoa KỳAlbum hay nhất năm 2014 - Nay201420 [62]
RevolverHoa Kỳ20 Album hay nhất năm 201420144 [63]

Doanh số thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

Album ra mắt ở vị trí thứ ba trên Billboard 200 Mỹ, đứng sau Ultraviolence của Lana Del ReyIn the Lonely Hour của Sam Smith, với doanh số tuần đầu tiên là 110.000 bản tại Hoa Kỳ. Mặc dù đây là tuần đầu tiên của năm 2014 có ba album bán được hơn 100.000 bản tại Hoa Kỳ, nó lại trở thành album phòng thu trong có thứ hạng thấp nhất của Linkin Park. Trong tuần thứ hai, album tụt xuống vị trí thứ chín trên bảng xếp hạng, bán được 29.000 bản.[64] Trong tuần thứ ba, album đã bán được thêm 16.000 bản, nâng tổng doanh số bán album lên 155.000 bản tại Hoa Kỳ.[65] Tính đến tháng 12 năm 2014, album đã bán được 231.150 bản tại Hoa Kỳ.[66] Mặc dù doanh số bán chậm, album đã được chứng nhận Bạch kim tại Mỹ, vào tháng 12 năm 2017.[67]

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Tất cả các ca khúc được viết bởi Linkin Park, trừ phi được chú thích.

The Hunting Party
STTNhan đềSáng tácThời lượng
1."Keys to the Kingdom" 3:38
2."All for Nothing" (Page Hamilton góp mặt) 3:33
3."Guilty All the Same" (Rakim góp mặt)
5:55
4."The Summoning" (nhạc nền) 1:00
5."War" 2:11
6."Wastelands" 3:15
7."Until It's Gone" 3:53
8."Rebellion" (Daron Malakian góp mặt)
3:44
9."Mark the Graves" 5:05
10."Drawbar" (nhạc nền) (Tom Morello góp mặt) 2:46
11."Final Masquerade"
3:37
12."A Line in the Sand" 6:35
Tổng thời lượng:45:12
các bài hát trực tiếp bổ sung của The Hunting Party phiên bản Xbox deluxe
STTNhan đềSáng tácThời lượng
13."With You" (trực tiếp tại Home Depot Center)3:42
14."Lost in the Echo" (trực tiếp tại Home Depot Center) 3:57
15."Numb" (trực tiếp tại Home Depot Center) 3:17
16."Burn It Down" (trực tiếp tại Home Depot Center) 3:57
Tổng thời lượng:60:09
DVD Bổ sung ─ The Hunting Party: Live from Mexico[a][68]
STTNhan đềSáng tácThời lượng
1."Intro" 2:31
2."A Place for My Head"
  • Linkin Park
  • Mark Wakefield
  • Dave Farrell
2:49
3."New Divide" 4:40
4."Somewhere I Belong" 4:16
5."Points of Authority" 3:21
6."Lies Greed Misery" 2:28
7."Lost in the Echo" 3:55
8."What I've Done" 3:37
9."Burn It Down" 3:54
10."In the End" 3:29
11."Bleed It Out" 4:51
12."One Step Closer" 4:10
Tổng thời lượng:41:21
Gói kỹ thuật số giới hạn ─ Hybrid Theory: Live at Download Festival 2014
STTNhan đềSáng tácThời lượng
1."Papercut" 3:13
2."One Step Closer" 3:13
3."With You"
  • Linkin Park
  • Simpson
  • King
3:34
4."Points of Authority" 5:00
5."Crawling" 3:29
6."Runaway"
  • Linkin Park
  • Wakefield
3:16
7."By Myself" 3:24
8."In the End" 3:40
9."A Place for My Head"
  • Linkin Park
  • Wakefield
  • Farrell
3:44
10."Forgotten"
  • Linkin Park
  • Wakefield
  • Farrell
3:26
11."Cure for the Itch" 2:50
12."Pushing Me Away" 3:29

Ghi chú

  • ^a Live from Mexico là buổi biểu diễn trực tiếp năm 2012 của Linkin Park tại Monterrey, Mexico, ban đầu được thu âm cho MTV World Stage.

The Hunting Party (Acapellas + Instrumentals)[sửa | sửa mã nguồn]

The Hunting Party (Acapellas + Instrumentals)
Album phòng thu của Linkin Park
Phát hành12 tháng 8 năm 2014 (2014-08-12)
Thu âm
Thể loại
Thời lượng1:26:28
Hãng đĩa
Sản xuất

The Hunting Party (Acapellas + Instrumentals) là album nhạc cụ và a cappella thứ hai do Linkin Park thực hiện, trích từ The Hunting Party. Album được phát hành trên iTunes [69] và Amazon [70] vào ngày 12 tháng 8 năm 2014.

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

STTNhan đềThời lượng
1."Keys to the Kingdom" (A cappella)3:39
2."All for Nothing" (Page Hamilton góp mặt, A cappella)3:34
3."Guilty All the Same" (Rakim góp mặt, A cappella)5:54
4."War" (A cappella)2:11
5."Wastelands" (A cappella)3:16
6."Until It's Gone" (A cappella)3:53
7."Rebellion" (A cappella)3:44
8."Mark the Graves" (A cappella)5:04
9."Final Masquerade" (A cappella)3:38
10."A Line in the Sand" (A cappella)6:35
11."Keys to the Kingdom" (nhạc cụ)3:29
12."All for Nothing" (Page Hamilton góp mặt, nhạc cụ)3:14
13."Guilty All the Same" (nhạc cụ)5:54
14."The Summoning" (nhạc cụ)1:02
15."War" (nhạc cụ)2:05
16."Wastelands" (nhạc cụ)3:18
17."Until It's Gone" (nhạc cụ)3:41
18."Rebellion" (Daron Malakian góp mặt, nhạc cụ)3:45
19."Mark the Graves" (nhạc cụ)5:02
20."Drawbar" (Tom Morello nhạc cụ, nhạc cụ)3:12
21."Final Masquerade" (nhạc cụ)3:40
22."A Line in the Sand" (nhạc cụ)6:38
Tổng thời lượng:1:26:28

Nhân sự[sửa | sửa mã nguồn]

Kỹ thuật [71]

  • Rob Cavallo – đồng sản xuất ("Wastelands"), A&R
  • Emile Haynie – đồng sản xuất ("Final Masquerade")
  • Ryan DeMarti – điều phối sản xuất
  • Ethan Mates – kỹ sư
  • Andy Wallace – phối âm
  • Paul Suarez – Pro Tools
  • Josh Newell – chỉnh sửa kỹ thuật số
  • Emily Lazar – mastering
  • Rich Morales – trợ lý mastering
  • Alejandro Baima – trợ lý kỹ sư
  • Brendan Dekora – trợ lý kỹ sư
  • Jennifer Langdon – trợ lý kỹ sư
  • Jerry Johnson – kỹ thuật viên trống
  • Brandon Parvini – đồ họa máy tính, chỉ đạo sáng tạo
  • Rickey Kim – chỉ đạo sáng tạo
  • Annie Nguyen – chỉ đạo nghệ thuật
  • James Jean – ảnh bìa
  • Brandon Cox – nhiếp ảnh
  • Kymm Britton – quảng bá
  • Kas Mercer – quảng bá

Bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc giaChứng nhậnDoanh số
Áo (IFPI Áo)[125]Gold7.500*
Canada (Music Canada)[126]Gold40.000^
Đức (BVMI)[127]Platinum0double-dagger
Ý (FIMI)[128]Gold25.000double-dagger
Hungary (Mahasz)[129]Platinum6.000^
Ba Lan (ZPAV)[130]Gold10.000*
Thụy Sĩ (IFPI)[131]Gold10.000^
Anh Quốc (BPI)[132]Gold100.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[133]Platinum1.000.000double-dagger

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.

Lịch sử phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Khu vựcNgàyĐịnh dạngHãng thu âmDanh mục số
Úc [134]Ngày 13 tháng 6 năm 2014CD
Hộp CD
CD + DVD
Tải xuống kỹ thuật số
Đức [135]CDWarner Bros.
CD + DVD
Tải xuống kỹ thuật số
Ấn Độ [136]Tải xuống kỹ thuật số
Hà LanCD
Tải xuống kỹ thuật số
Thụy SĩCD
CD + DVD
Tải xuống kỹ thuật số
Ba Lan [137][138]Ngày 16 tháng 6 năm 2014CDWarner0093624937593
CD + DVD0093624936985
Vương quốc Anh [139]CDWarner Bros.
CD + DVD
Tải xuống kỹ thuật số
Hàn Quốc [140]Ngày 18 tháng 6 năm 2014CDWarnerWKPD-0326
CD + DVD49369-8
Tải xuống kỹ thuật số
Ấn Độ [141]Ngày 17 tháng 6 năm 2014CD093624937593
Hoa Kỳ
  • Warner Bros.
  • Machine Shop
CD + DVD9362-49369-8
Tải xuống kỹ thuật số
ĐứcNgày 26 tháng 8 năm 2014LPWarner Bros.
Ba Lan [142]Warner0093624935711
Hoa KỳNgày 21 tháng 10 năm 2014Đĩa than
  • Warner Bros.
  • Machine Shop

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ https://www.riaa.com/gold-platinum/?tab_active=default-award&ar=&ti=The+Hunting+Party&lab=&genre=&format=&date_option=release&from=&to=&award=&type=&category=&adv=SEARCH#search_section
  2. ^ Carle, Chris (ngày 22 tháng 6 năm 2009). “Linkin Park's Mike Shinoda”. IGN. IGN Entertainment. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 3 năm 2010.
  3. ^ “Neue Interview-Serie: Linkin Park über die Entstehung von "The Hunting Party" (bằng tiếng Đức). Warner Music Germany. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2014.
  4. ^ “Chester Bennington talks with KFMAtv about 'The Hunting Party' and more”. KFMAtv. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2014.
  5. ^ a b Millard, Drew. “Linkin Park: Hunting for the Perfect Beat”. Vice. Noisey. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
  6. ^ a b Grow, Kory. “Inside Linkin Park's Heavy New Album: 'We Need to Weed Out the Emo'. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2014.
  7. ^ a b Perlmutter, Adam. “In the Studio with Linkin Park (Part 1)”. Premier Guitar. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2014.
  8. ^ “Linkin Park gets back to hard-rock roots”. Mercurynews. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2018.
  9. ^ “New Linkin Park LP Expected This Year”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 1 tháng 3 năm 2016.
  10. ^ Roffman, Michael (ngày 19 tháng 6 năm 2014). “Linkin Park – The Hunting Party | Album Reviews”. Consequence of Sound. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2014.
  11. ^ Gary Clarke (ngày 30 tháng 6 năm 2014). “Linkin Park – The Hunting Party”. Screamer.
  12. ^ Childers, Chad. “Linkin Park, 'The Hunting Party' – Album review”. Loudwire. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2014.
  13. ^ a b Schulz, Chris. “Album review: Linkin Park, The Hunting Party”. The New Zealand Herald. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
  14. ^ “CD review: Color It Red, Linkin Park return”. Abs-Cbn Corporation. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2018.
  15. ^ Iandoli, Kathy. “Mike Shinoda of Linkin Park – Talks Rakim Collaboration, Says He's On The "Kendrick Got Robbed" Team From The Grammy's”. HipHop DX. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2014.
  16. ^ “Linkin Park's Mike Shinoda calls CHVRCHES "Disney commercial music," CHVRCHES respond”. Consequence of Sound (bằng tiếng Anh). ngày 1 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2017.
  17. ^ “Linkin Park Appear on Cover of New Issue, Talk Getting Booed at Ozzfest, Why "Rock Music Sucks," and Their Heaviest Album Yet”. Revolvermag. ngày 19 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2017.
  18. ^ Bosso, Joe. “Brad Delson talks Linkin Park's upcoming, guitar-heavy new album”. MusicRadar. Truy cập ngày 29 tháng 3 năm 2014.
  19. ^ Davidson, Amy. “Linkin Park drummer "blew his back" recording new album The Hunting Party”. Digital Spy. Hearst Magazines UK. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2014.
  20. ^ a b Perlmutter, Adam. “In the Studio with Linkin Park (Part 2)”. Premier Guitar. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2014.
  21. ^ “Stone Temple Pilots and Linkin Park's Chester Bennington reveal 'High Rise' EP tracklisting”. NME. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2014.
  22. ^ Hogan, Marc (ngày 27 tháng 2 năm 2013). “Stone Temple Pilots Fire Frontman Scott Weiland”. Spin. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2013.
  23. ^ a b “K!1515 – Rock Confessions: Your Favourite Stars Bare Their Souls!”. Kerrang!. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2014.
  24. ^ “Linkin Park Announce New Album 'The Hunting Party,' Unveil Cover and Release Date”. Ultimate Guitar. ngày 10 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2015.
  25. ^ “Mike Shinoda Says New Linkin Park Album Will Be Loud and Aggressive”. ABC News Radio. ngày 7 tháng 4 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 7 tháng 4 năm 2014.
  26. ^ Farrier, David. “Chester Bennington talks Linkin Park's The Hunting Party”. 3 News. Television New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2014.
  27. ^ “02:00, ngày 11 tháng 4 năm 2014”. jamesjeanart. Instagram. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2014.
  28. ^ Jennings, Dana. “Comics Canonization”. The New York Times. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2014.
  29. ^ a b c Silver, Leigh. “Interview: Artist James Jean and Linkin Park's Mike Shinoda and Joe Hahn Talk Designing Art for "The Hunting Party". Complex. Complex Media. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2014.
  30. ^ “Top 5 Best Rock Albums of 2014”. Guardian Liberty Voice. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2015.
  31. ^ Montgomery, James. “Surprise! Linkin Park Drop New Single 'Guilty All The Same'. MTV. Viacom. Truy cập ngày 6 tháng 3 năm 2014.
  32. ^ Pham, Alex. “Linkin Park's New Video is a Game: Inside Look at 'Guilty All the Same'. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2014.
  33. ^ “Linkin Park 'Leaks' First Single, Album Title, Release Date”. 102.1 The Edge. ngày 7 tháng 3 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
  34. ^ Walsh, Andy. “Single Review: Linkin Park – "Guilty All The Same". Renowned For Sound. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
  35. ^ “Linkin Park Finalize "The Hunting Party" Track listing, Rage Against The Machine, Helmet. Etc. Members Guest”. The PRP. ngày 27 tháng 4 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2014.
  36. ^ “The Hunting Party”. iTunes Store (AU). Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2014.
  37. ^ “Linkin Park Premiere New Music Video, "Until It's Gone". Revolver. ngày 1 tháng 6 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2014.
  38. ^ “The Hunting Party”. iTunes Store US. Apple Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 6 năm 2014.
  39. ^ “Linkin Park: Wastelands”. Google Play. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2014.
  40. ^ “Twitter / linkinpark:. @ChesterBe just debuted”. Twitter. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2014.
  41. ^ Crane, Matt (ngày 4 tháng 6 năm 2014). “Linkin Park stream new song”. Alternative Press. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2014.
  42. ^ “Indecent Exposure: Rebellion”. Razor 94.7. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2017. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2014.
  43. ^ “SONG PREMIERE: Linkin Park's 'Final Masquerade'. MTV. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2014.
  44. ^ “Stream Linkin Park's 'Final Masquerade' Here!”. MTV. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2014.
  45. ^ “Linkin Park: Gewinne eine Reise nach L.A. für 2 Personen inkl. Listening-Session mit Linkin Park”. Warner Music Germany (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2015.
  46. ^ “LP Underground announces "The Hunting Party" Listening Sessions on June 4th”. Linkin Park Association. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2014.
  47. ^ “LPU Summit: New York”. Linkin Park Underground. Warner Bros. Records. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2014.
  48. ^ “LPU Summit: Texas”. Linkin Park Underground. Warner Bros. Records. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2014.
  49. ^ “Linkin Park Premiered New Song 'Wastelands' Live”. Ultimate Guitar Archive. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2014.
  50. ^ “Linkin Park Leak New Song "Wastelands" At Rock in Rio – Linkin Park Fan Corner”. Linkin Park Fan Corner. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2015.
  51. ^ “Linkin Park & 30 Seconds to Mars join forces for tour”. Boston Music Spotlight. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 3 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2014.
  52. ^ “Linkin Park, 30 Seconds to Mars Announce Carnivores Tour”. Billboard. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2014.
  53. ^ Linkin Park Announce The Hunting Party Tour with Rise Against and Of Mice & Men Revolver ngày 3 tháng 11 năm 2014
  54. ^ Linkin Park Cancel 'Hunting Party' Tour Following Injury Lưu trữ 2017-10-17 tại Wayback Machine Rolling Stone ngày 21 tháng 1 năm 2015
  55. ^ “The Hunting Party Reviews”. Metacritic. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2014.
  56. ^ Simpson, Dave. “Linkin Park: The Hunting Party review – former nu-metallers rock out again”. The Guardian. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2014.
  57. ^ Stephen Thomas Erlewine (ngày 10 tháng 6 năm 2014). “The Hunting Party – Linkin Park | Songs, Reviews, Credits, Awards”. AllMusic. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2014.
  58. ^ Neil McCormick. “Linkin Park, The Hunting Party, review: 'sleek and exciting'. The Daily Telegraph. Truy cập ngày 28 tháng 6 năm 2014.
  59. ^ Graham 'Gruhamed' Hartmann 4th Annual Loudwire Music Awards: Complete Winners List ngày 3 tháng 2 năm 2015
  60. ^ The Top 50 Rock Albums of 2014 Kerrang! ngày 17 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2014.
  61. ^ The Best Rock Albums of 2014 Loudwire ngày 1 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2014.
  62. ^ The Best Albums of 2014. Revolver ngày 25 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2014.
  63. ^ The 20 Best Albums of 2014. Revolver ngày 24 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2014.
  64. ^ “Ed Sheeran's 'X' Debuts At No. 1 on Billboard 200 Albums Chart”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2014.
  65. ^ Tardio, Andres (ngày 29 tháng 6 năm 2014). “Trey Songz's "Trigga" Tops This Week's Album Sales Report”. HipHop DX. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2014.
  66. ^ Tardio, Andres (ngày 10 tháng 9 năm 2014). “Hip Hop Album Sales: Jeezy, Wiz Khalifa, Iggy Azalea”. HipHop DX. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2014.
  67. ^ https://www.riaa.com/gold-platinum/?tab_active=default-award&ar=Linkin+Park&ti=#search_section
  68. ^ “The Hunting Party (CD+ DVD)”. WarnerMusic.ch. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2014.
  69. ^ "The Hunting Party (Acapellas + Instrumentals)" iTunes ngày 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2014.
  70. ^ "The Hunting Party (Acapellas + Instrumentals)" Amazon.com ngày 12 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2014.
  71. ^ "The Hunting Party credits" AllMusic Retrieved ngày 3 tháng 6 năm 2015
  72. ^ "Australiancharts.com – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  73. ^ "Austriancharts.at – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  74. ^ "Ultratop.be – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  75. ^ "Ultratop.be – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  76. ^ "{{{artist}}} Chart History (Canadian Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  77. ^ "Czech Albums – Top 100". ČNS IFPI. Ghi chú: Trên trang biểu đồ này, chọn {{{date}}} trên trường này ở bên cạnh từ "Zobrazit", và sau đó nhấp qua từ để truy xuất dữ liệu biểu đồ chính xác.
  78. ^ "Danishcharts.dk – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  79. ^ "Dutchcharts.nl – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien.
  80. ^ “Linkin Park: The Hunting Party”. Music Producers. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2015.
  81. ^ "Lescharts.com – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Pháp). Hung Medien.
  82. ^ “Linkin Park – The Hunting Party”. Official Charts. GfK Entertainment. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2015.
  83. ^ "Album Top 40 slágerlista – {{{year}}}. {{{week}}}. hét" (bằng tiếng Hungary). MAHASZ.
  84. ^ Top Music Albums Charts, via iTunes Store India IMI Retrieved ngày 18 tháng 8 năm 2014.
  85. ^ "Irish-charts.com – Discography {{{artist}}}". Hung Medien.
  86. ^ “Artisti – Classifica settimanale WK 25 (dal 16-06-2014 al 22-06-2014)” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2014.
  87. ^ “リンキン・パークのザ・ハンティング・パーティーランキング” (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 30 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 29 tháng 11 năm 2017.
  88. ^ “Puesto #4 del #Top100MX del...” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Twitter. ngày 9 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2014.
  89. ^ "Charts.nz – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  90. ^ "Norwegiancharts.com – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  91. ^ "Oficjalna lista sprzedaży :: OLiS - Official Retail Sales Chart" (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. Polish Society of the Phonographic Industry.
  92. ^ "Portuguesecharts.com – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  93. ^ "Official Scottish Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  94. ^ “South African Top 20 Albums Chart”. RSG (Recording Industry of South Africa). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 7 năm 2014.
  95. ^ "Spanishcharts.com – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  96. ^ "Swedishcharts.com – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Anh). Hung Medien.
  97. ^ "Swisscharts.com – {{{artist}}} – {{{album}}}" (bằng tiếng Đức). Hung Medien.
  98. ^ "Official Albums Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company.
  99. ^ “2014-06-28 Top 40 Rock & Metal Albums Archive | Official Charts”. Official Charts Company. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2014.
  100. ^ "Lana Del Rey lands first no 1" Billboard Retrieved ngày 25 tháng 6 năm 2014.
  101. ^ "Linkin park Hunting Party top rock albums chart Arctic Monkeys" Billboard Retrieved ngày 26 tháng 6 năm 2014.
  102. ^ “Linkin Park”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2015.
  103. ^ "{{{artist}}} Chart History (Top Hard Rock Albums)". Billboard (bằng tiếng Anh).
  104. ^ “End of Year Charts – ARIA Top 100 Albums 2014”. ARIA Charts. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2015.
  105. ^ “Jahreshitparade Alben 2014”. Austrian Charts. Hung Medien. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2015.
  106. ^ “Jaaroverzichten 2014”. Ultratop Belgian Charts. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2015.
  107. ^ “Rapports Annuels 2014”. Ultratop Belgian Charts. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2015.
  108. ^ “Jahrescharts 2014”. GfK Entertainment. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2015.
  109. ^ “Schweizer Jahreshitparade 2014”. Hung Medien. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2015.
  110. ^ “2014 Year End Charts – Top Billboard 200”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2014.
  111. ^ “Alternative Albums: 2014 Year-End Charts”. Billboard. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2015. (cần đăng ký mua)
  112. ^ “2014 Year End Charts – Top Billboard Hard Rock Albums”. Billboard. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2014.
  113. ^ “2014 Year End Charts – Top Billboard Rock Albums”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2014.
  114. ^ “Linkin Park Album & Song Chart History – Rock Songs”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2014.
  115. ^ “Linkin Park Album & Song Chart History – Alternative Songs”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2014.
  116. ^ “Linkin Park Single-Chartverfolgung” (bằng tiếng Đức). Musicline.de. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 7 năm 2012.
  117. ^ “Linkin Park Album & Song Chart History – Billboard Canada Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2014.
  118. ^ “Linkin Park”. Official Charts Company. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2014.
  119. ^ a b “2014 Top 40 Rock & Metal Singles Archive”. Official Charts Company. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 1 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2014.
  120. ^ “Australian Charts Linkin Park singles”. ARIA Charts. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2014.
  121. ^ “New Zealand Singles Chart”. charts.nz. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2014.
  122. ^ “Austrian Singles Chart”. austriancharts.at. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2014.
  123. ^ “French Singles Chart”. lescharts.com. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  124. ^ “Swiss Singles Chart”. Die Offizielle Schweizer Hitparade. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2012.
  125. ^ “Chứng nhận album Áo – Linkin Park – The Hunting Party” (bằng tiếng Đức). IFPI Áo.
  126. ^ “Chứng nhận album Canada – Linkin Park – The Hunting Party” (bằng tiếng Anh). Music Canada.
  127. ^ “Gold-/Platin-Datenbank (Linkin Park; 'The Hunting Party')” (bằng tiếng Đức). Bundesverband Musikindustrie.
  128. ^ “Chứng nhận album Ý – Linkin Park – The Hunting Party” (bằng tiếng Ý). Federazione Industria Musicale Italiana. Chọn "2018" ở menu thả xuống "Anno". Chọn "The Hunting Party" ở mục "Filtra". Chọn "Album e Compilation" dưới "Sezione".
  129. ^ “Adatbázis – Arany- és platinalemezek – 2015” (bằng tiếng Hungary). MAHASZ.
  130. ^ “Wyróżnienia – Złote płyty CD - Archiwum - Przyznane w 2014 roku” (bằng tiếng Ba Lan). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Ba Lan.
  131. ^ “The Official Swiss Charts and Music Community: Chứng nhận ('The Hunting Party')” (bằng tiếng Đức). IFPI Thụy Sĩ. Hung Medien.
  132. ^ “Chứng nhận album Anh Quốc – Linkin Park – The Hunting Party” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Chọn album trong phần Format. Chọn Gold' ở phần Certification. Nhập The Hunting Party vào mục "Search BPI Awards" rồi ấn Enter.
  133. ^ “Chứng nhận album Hoa Kỳ – Linkin Park” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ.
  134. ^ “Results 4 for 'Linkin Park Hunting Party'. JB Hi-Fi. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2014.[liên kết hỏng]
  135. ^ “The Hunting Party”. iTunes Store DE. Apple Inc. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2014.
  136. ^ The Hunting Party Digital download iTunes Retrieved ngày 22 tháng 8 năm 2014.
  137. ^ “LINKIN PARK:: THE HUNTING PARTY” (bằng tiếng Ba Lan). Warner Music Poland. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 7 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  138. ^ “LINKIN PARK:: THE HUNTING PARTY (CD+DVD)” (bằng tiếng Ba Lan). Warner Music Poland. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
  139. ^ “The Hunting Party”. iTunes Store (GB). Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2014.
  140. ^ “㈜한터정보시스템 ▒”. Hanteo.com. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2014.
  141. ^ “The Hunting Party Music Audio CD”. Flipkart. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2015.
  142. ^ “LINKIN PARK:: THE HUNTING PARTY” (bằng tiếng Ba Lan). Warner Music Poland. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2014.
Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/The_Hunting_Party_(album)