Wiki - KEONHACAI COPA

The Fame Monster

The Fame Monster
Album phòng thu (tái phát hành) / EP của Lady Gaga
Phát hành18 tháng 11 năm 2009
Thu âm2009
Thể loạipop, electropop, dance
Thời lượng34:09
Hãng đĩaInterscope, Cherrytree, Streamline, Kon Live
Sản xuấtLady Gaga, Darkchild, Fernando Garibay, RedOne, Ron Fair, Space Cowboy, Teddy Riley
Thứ tự album của Lady Gaga
Hitmixes
(2008)
The Fame Monster
(2009)
The Remix
(2010)
Bìa thay thế
Bìa thay thế
Đĩa đơn từ The Fame Monster
  1. "Bad Romance"
    Phát hành: 26 tháng 10 năm 2009 (2009-10-26)
  2. "Telephone"
    Phát hành: 26 tháng 1 năm 2010 (2010-01-26)
  3. "Alejandro"
    Phát hành: 20 tháng 4 năm 2010 (2010-04-20)
  4. "Dance in the Dark"
    Phát hành: 26 tháng 7 năm 2010 (2010-07-26)

The Fame Monster (tạm dịch: Quái vật danh tiếng) là album phòng thu tái phát hành của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Mỹ Lady Gaga phát hành vào ngày 18 tháng 11 năm 2009 từ album The Fame. The Fame Monster là một tập hợp gồm 8 ca khúc mới ban đầu được dự định là một phần mở rộng trong một bản tái phát hành lại của album The Fame. Tuy nhiên, sau đó Lady Gaga thông báo rằng The Fame Monster sẽ được phát hành riêng vì nếu gộp chung cả hai album lại thì giá thành của The Fame sẽ rất đắt, một lý do nữa là vì chủ đề chính và xu hướng âm nhạc trong The Fame Monster đề cập đến một vấn đề hoàn toàn khác biệt so với The Fame, cho nên album không cần những ca khúc cũ của The Fame để hỗ trợ và làm nổi bật nó. Đến ngày 15 tháng 12 năm 2009, một phiên bản đặc biệt của The Fame Monster được phát hành, trong EP này bao gồm có hai đĩa tập hợp tất cả những bản nhạc trích từ The FameThe Fame Monster. Album tập trung nói về một cuộc sống thật khó khăn ẩn chứa đằng sau vầng hào quang danh vọng mà Lady Gaga đã từng trải trong suối hai năm 2008-2009 cô dã đứng trên ánh đèn sâu khấu. Những vướng mắc ấy đều được thể hiện thông qua phép ẩn dụ nói về một con quái vật. Tuy nhiên, chủ đề này lại rất đối nghịch với những cảm nhận của Gaga về The Fame.

Bìa nghệ thuật EP được thực hiện bởi nhiếp ảnh gia Hedi Slimane, rất nhiều người khi nhìn vào bức ảnh lầu đầu tiên cũng đều phải thốt lên rằng: "Ôi chúa ơi, y hệt như poster phim kinh dị vậy!", và cũng chính vì lý do ấy mà Lady Gaga đã phải thuyết phục công ty thu âm cho phép cô thực hiện điều này. Bìa album được lấy cảm hứng từ xu hướng âm nhạc Gothic cũng như trong nghệ thuật thời trang. [A]

Rất nhiều nhà phê bình đương đại đã đưa ra những đánh giá tích cực cho album, với phần lớn trong số họ khen ngợi những ca khúc trong EP như "Bad Romance" và "Dance in the Dark". Ở một số quốc gia, album kết hợp với The Fame để xếp hạng. Tại một số nước khác như Hoa Kỳ, Canada, Nhật Bản,...The Fame Monster chỉ được tính là một album riêng biệt. Album đã giành vị trí quán quân tại Úc, Đức, Ireland, New Zealand, Ba Lan, Vương quốc Anh và giành vị trí top-ten ở các thị trường âm nhạc lớn khác. "Bad Romance" được chọn làm đĩa đơn đầu tiên để phát hành, ca khúc là một sự thành công vượt trội khi đứng đầu các bảng xếp hạng tại hơn 26 quốc gia. Hai đĩa đơn tiếp theo là "Telephone" và "Alejandro", cả hai đều giành vị trí top-ten tại Hoa KỳAnh Quốc, cũng như đĩa đơn "Dance in the Dark" gần đây đã được phát hành tại Úc. Lady Gaga quảng bá cho album tại chuyến lưu diễn thứ hai của cô mang tên The Monster Ball Tour bắt đầu vào ngày 27 tháng 11 năm 2009 và sẽ tiếp tục biểu diễn tới hết tháng 4 năm 2011.

Trên toàn thế giới, The Fame Monster trở thành EP bán chạy nhất năm 2010 với lượng tiêu thụ vượt ngưỡng mức 5.800.000 bản. Với chiến thắng này, Lady Gaga đã vượt mặt cả album Recovery của Eminem - một trong những nghệ sĩ rap có lượng đĩa bán chạy nhất mọi thời đại - đồng thời The Fame Monster cũng là album bán chạy nhất nước Mỹ vào năm 2010 [1]. Khi hay tin, nữ ca sĩ đã gửi vài dòng tâm sự tới người hâm mộ qua Twitter: "The Fame Monster là album bán chạy nhất năm. Tôi thật phấn khích và lạc quan về tương lai. Chỉ cần tin tưởng và làm việc chăm chỉ, bạn sẽ có được những gì mình mơ ước" [2]. Đến ngày 13 tháng 2 năm 2011, album và đĩa đơn trong "The Fame Monster" của Lady Gaga nhận được sáu đề cử Grammy, trong đó có giải quan trọng nhất là Album của năm và cô đã chiến thắng hạng mục Album giọng pop xuất sắc nhất[3].

Phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Bắc MĩAnh, album được phát hành dưới phiên bản 8 ca khúc vào ngày 23 tháng 11 năm 2009. Trên trang web của mình, Lady Gaga cũng khẳng định rằng phiên bản mở rộng này cũng sẽ có cả những ca khúc trong album đầu tiên của cô - The Fame - nhưng mà là trong một đĩa tặng kèm. Ngoài ra trong EP cô còn gửi tặng nhiều món quà khác đến cho những người hâm mộ của mình như một búi tóc giả, một bộ xếp hình, một cặp kính 3D...

"Trong album The Fame Monster, tôi sẽ sáng tác tất cả những gì không có trong album trước. Gần hai năm chu du vòng quanh thế giới, tôi đã chạm trán một vài quái vật, mỗi quái vật đều được tái hiện qua một ca khúc trong album, chẳng hạn như "Fear Of Sex Monster", "Fear Of Alcohol Monster", "Fear Of Love Monster", "Fear Of Death Monster", "Fear Of Loneliness Monster"..." - Lady Gaga chia sẻ với MTV. Cô cũng tiết lộ rằng trong album sẽ có một bản nhạc ballad mang tên "Speechless". Đây là ca khúc Gaga dành tặng riêng cho cha và ông của mình và là sản phẩm cô yêu thích nhất trong toàn bộ album. Nữ ca sĩ tài năng với phong cách độc đáo cũng nhấn mạnh rằng cô làm album này là để dành cho người hâm mộ, vì thế sẽ không có bất kỳ ca khúc nào liên quan đến tiền bạc hay danh vọng.

Đánh giá chuyên môn[sửa | sửa mã nguồn]

Đánh giá chuyên môn
Nguồn đánh giá
NguồnĐánh giá
Allmusic
Robert Christgau(A-)
The Independent(tích cực)
Los Angeles Times
NME(8/10)
The Observer
Pitchfork Media(7.8/10)
Rolling Stone
Slant Magazine
Spin(6/10)

Diễn biến trên các bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Lady Gaga trình diễn ca khúc "Monster" trong chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour.

Tại Hoa Kỳ, những đĩa đơn độc lập của The Fame Monster đứng thứ năm trên bảng xếp hạng tiêu thụ với doanh số hơn 174.000 bản trong khi đĩa kép cao cấp bao gồm cả bản gốc The Fame lại giành vị trí thứ sáu với doanh số 151.000 bản.[4]. Album này cũng đứng đầu bảng xếp hạng Top Digital Albums với doanh số tiêu thụ là 65.000 bản. Bảy trong số tám bài hát nằm trong The Fame Monster cũng có mặt trên bảng xếp hạng Hot Digital Songs [5] đồng thời giành vị trí quán quân ở Dance/Electronic Albums, thay thế cho phiên bản gốc The Fame [6]. Trong tháng 1 năm 2010, album được chứng nhận đĩa bạch kim do Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ (RIAA) trao tặng dành cho lô hàng tiêu thụ một triệu bản của The Fame Monster [7]. Album đã bán được hơn 1.400.000 bản tại Hoa Kỳ theo thống kê của Nielsen Soundscan [8]. Tại Canada, album ra mắt và đạt vị trí thứ sáu trên bảng xếp hạng Canadian Albums Chart [9]

ÚcNew Zealand, The Fame MonsterThe Fame ban đầu được tính chỉ là một album cũ có thêm tám bản nhạc mới, nhưng sau đó lại được xem như hai album độc lập không luân phiên hỗ trợ nhau. Trong tuần thứ 18 kể từ ngày phát hành, album đã leo lên vị trí số một tại Úc và được chứng nhận ba lần đĩa bạch kim cho doanh số tiêu thụ vượt quá 140.000 bản [10][11]. The Fame Monster kết hợp với The Fame tại Áo, IrelandĐức để xếp hạng và đã giành vị trí quán quân trên bảng xếp hạng ở cả ba quốc gia này [12][13]. Album giữ kỷ vị trí thứ hai trên bảng xếp hạng Oricon của Nhật Bản [14].

Tại Vương Quốc Anh, The Monster Fame được phát hành như là một phiên bản cao cấp của The Fame và không phải là một album độc lập, có nghĩa là album này hỗ trợ với The Fame để làm nổi bật chủ đề chính. Sau bước nhảy vọt dáng kể 48 hạng từ vị trí thứ 55 lên vị trí thứ 7, vào ngày 3 tháng 1 năm 2010, album đã leo lên vị trí thứ 2 trên bảng xếp hạng UK Albums Chart [15]. Tất cả các bài hát mới từ The Fame Monster đều nằm trong tốp 110 đĩa đơn thành công nhất mọi thời đại ở Anh [16]. Cuối tuần ngày 28 tháng 2 năm 2010, album đã leo lên vị trí đầu bảng ở Anh quốc một tuần lễ cùng với The Fame. Đến ngày 21 tháng 3 năm 2010, album đã trở lại bảng xếp hạng ở vị trí quán quân một lần nữa, đánh bại nhóm nhạc hài kịch Glee Cast mặc dù họ được dự kiến sẽ đạt vị trí số một trong tuần kế tiếp [15], đồng thời The Fame Monster cũng leo lên vị trí thứ 13 tại bảng xếp hạng European Top 100 Albums [17]. Album được chứng nhận hai lần đĩa bạch kim do Liên đoàn quốc tế ngành công nghiệp ghi âm (IFPI) công nhận dành cho lô hàng tiêu thụ hết hai triệu bản trên toàn Châu Âu...[18]

Đĩa đơn[sửa | sửa mã nguồn]

Lady Gaga trình diễn ca khúc "Alejandro" trong chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour.

"Bad Romance" là đĩa đơn chính thức đầu tiên mở đường cho album [19]. Một phần ngắn của bài hát được Lady Gaga trình diễn trên kênh truyền hình Saturday Night Live vào ngày 3 tháng 10 năm 2009 cùng với một số ca khúc khác như "Poker Face" và "LoveGame" [20][21]. Ngoài ra, "Bad Romance" còn được chọn làm nhạc nền trong đêm diễn chung kết thời trang xuân/ 2010 của nhà thiết kế lừng danh Alexander McQueen dành cho tuần lễ thời trang Paris vào ngày 6 tháng 10 năm 2009 [22]. Việc phát hành bài hát bằng tải kỹ thuật số trên mạng bắt đầu tiến hành vào ngày 27 tháng 10 năm 2009. Ca khúc đã đứng đầu bảng xếp hạng Canadian Hot 100, UK Singles Chart, European Hot 100, German Singles Chart, Áo, Bungari, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Hungary, Ireland, Ý, Na Uy, Rumani, Slovakia, Tây Ban Nha, Thụy Điển cũng như giành vị trí thứ 2 tại Hoa Kỳ, Australia, New Zealand, Bỉ, và Thụy Sĩ [23][24].

"Telephone" được phát hành làm đĩa đơn chính thức thứ hai của album [25]. Trong ca khúc còn có sự góp mặt của nữ ca sĩ R&B nổi tiếng Beyoncé Knowles. Lady Gaga biểu diễn bài hát trực tiếp lần đầu tiên tại lễ trao giải BRIT Awards năm 2010 cùng với một số ca khúc khác từ The Fame Monster [26]. Video âm nhạc chính thức của "Telephone" trình chiếu trên kênh tin tức E! News vào ngày 11 tháng 3 năm 2010 [27]. Gaga còn cho biết thêm rằng video "Telephone" là một sự tiếp nối của "Paparazzi" về việc cô bị bạn trai ruồng bỏ và lừa đảo, và cũng tương tự như "Paparazzi", "Telephone" là một đoạn phim ngắn kể về việc cô bị ngồi tù và trở thành kẻ sát nhân. "Telephone" được đánh giá cao bởi các nhà phê bình, họ cho rằng đây là một ca khúc nổi bật nhất trong The Fame Monster, bài hát đã lọt vào bảng xếp hạng ở rất nhiều nước trước khi được phát hành như một đĩa đơn. Đến ngày 22 tháng 3 năm 2010, ca khúc đã giành vị trí số một trên UK Singles Chart, trở thành đĩa đơn quán quân thứ hai liên tiếp tại bảng xếp hạng Anh và cũng là bài hát thứ tư giành vị trí đầu bảng ở xứ sở sương mù của Lady Gaga. Ca khúc đứng thứ ba trên Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn thứ sáu liên tiếp của Gaga lọt vào tốp 10 tại bảng xếp hạng danh tiếng này [28]. Ngoài ra, Telephone cũng đạt đến vị trí số một ở Pop Songs, trở thành ca khúc quán quân thứ 6 liên tiếp của Lady Gaga đồng thời bài hát cũng giúp cô đánh bại hai nghệ sĩ kỳ cựu BeyonceMariah Carey kể từ khi Nielsen BDS chính thức công bố bảng xếp hạng dựa trên tần sóng phát thanh phát động vào năm 1992 [29].

"Alejandro" được phát hành làm đĩa đơn thứ ba của EP. Ban đầu, hãng thu âm của Lady Gaga lên kế hoạch sẽ chọn ca khúc "Dance in the Dark" thay cho "Alejandro" và sẽ thực hiện video tiếp nối với Telephone. Tuy nhiên, Gaga đã phản đối việc này, cô nói rằng cô làm việc theo bản năng và tự lựa chọn một con đường cho riêng mình, chứ cô không phải là một con rối trong tay các nhà sản xuất, họ bảo gì thì nghe nấy! Và cũng chính vì lý do đó mà mâu thuẫn đã phát sinh giữa Lady Gaga và hãng thu âm của cô, tuy nhiên cuối cùng "Alejandro" cũng được lựa chọn làm đĩa đơn chính thức để phát hành. Thông qua tài khoản của mình trên Twitter, Lady Gaga đã nhận xét và viết vài dòng về bài hát: "Alejandro hiện nay đã được phát sóng trên radio. Tôi đã cố gắng tạo nên một bản nhạc hay để các bạn thưởng thức, và tôi đã làm nó trở thành một con quái vật nhỏ !?" [30][31]. Ca khúc chính thức được gửi đến đài phát thanh vào ngày 20 tháng 4 năm 2010 tại Hoa Kỳ [32]. "Alejandro" đã giành vị trí quán quân ở Bungari, Cộng Hòa Séc, Nga, Phần Lan, Ba Lan, Rumani cũng như lọt vào tốp 5 ở Canada, Úc, Áo, Bỉ, Đức [33]... Tại Hoa Kỳ, bài hát đứng vững ở vị trí thứ 5, trở thành đĩa đơn thứ bảy liên tiếp của Gaga lọt vào top ten trên Billboard Hot 100 [34].

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

Phiên bản gốc
STTNhan đềSáng tácNhà sản xuấtThời lượng
1."Bad Romance"RedOne, Lady GagaRedOne4:55
2."Alejandro"RedOne, Lady GagaRedOne4:34
3."Monster"RedOne, Lady Gaga, Space CowboyRedOne4:09
4."Speechless"Lady GagaRon Fair4:31
5."Dance in the Dark"Lady Gaga, Fernando GaribayGaribay4:49
6."Telephone" (hợp tác với Beyoncé)Lady Gaga, Rodney Jerkins, LaShawn Daniels, Lazonate Franklin, BeyoncéJerkins3:41
7."So Happy I Could Die"Lady Gaga, RedOne, Space CowboyRedOne, Lady Gaga, Space Cowboy3:55
8."Teeth"Lady Gaga, Taja RileyTeddy Riley3:41
Phiên bản USB
STTNhan đềSáng tácNhà sản xuấtThời lượng
9."Bad Romance" (Starsmith Remix)RedOne, Lady GagaStarsmith4:56
10."Telephone" (Passion Pit Remix) (hợp tác với Beyoncé)Lady Gaga, Jerkins, Daniels, Franklin, BeyoncéPassion Pit5:13
11."Paparazzi" (Demolition Crew Remix) (radio edit)Lady Gaga, Rob FusariDemolition Crew3:54
12."Just Dance" (Deewaan Remix) (hợp tác với Ashking, Wedis, Lush and Young Thoro)Lady Gaga, RedOne, Aliaune ThiamDeewaan4:17
13."LoveGame" (Robots to Mars Remix)Lady Gaga, RedOneRobots to Mars3:14
14."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)" (Frankmusik Remix)Lady Gaga, Martin KierszenbaumFrankmusik3:48
15."Poker Face" (live at The Cherrytree House) (phiên bản piano và voice)Lady Gaga, RedOneKierszenbaum3:38
16."Bad Romance" (Grum Remix)RedOne, Lady GagaGrum4:51
17."Telephone" (Alphabeat Remix) (hợp tác với Beyoncé)Lady Gaga, Jerkins, Daniels, Franklin, BeyoncéAlphabeat5:13
The Fame Monster: Video EP
STTNhan đềThời lượng
1."Just Dance"4:06
2."Poker Face"3:40
3."Paparazzi"7:43
4."LoveGame"3:43
5."Eh, Eh (Nothing Else I Can Say)"3:03
6."Bad Romance"5:14
7."Telephone"9:27

Bảng xếp hạng và doanh số chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Thành công trên các bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Thứ tự chức vụ
Tiền nhiệm:
The Fame của Lady Gaga
Album quán quân Billboard Dance/Electronic Albums (Mỹ)
Ngày 12 tháng 12 năm 2009
Kế nhiệm:
The Fame của Lady Gaga
Tiền nhiệm
My Christmas của Andrea Bocelli
Album quán quân Polish Albums Chart
Ngày 4 tháng 1 năm 2010 – Ngày 10 tháng 1 năm 2010
Kế nhiệm
Magia del Tango của Marcin Wyrostek
Tiền nhiệm
Reality Killed the Video Star của Robbie Williams
Album quán quân German Albums Chart
Ngày 5 tháng 1 năm 2010 – Ngày 4 tháng 2 năm 2010
Kế nhiệm
Schall và Wahn của Tocotronic
Tiền nhiệm
The Element of Freedom của Alicia Keys
Album quán quân Swiss Albums Chart
Ngày 10 tháng 1 năm 2010
Kế nhiệm
Soldier of Love của Sade
Tiền nhiệm
Sunny Side Up của Paolo Nutini
Album quán quân Irish Albums Chart
Ngày 21 tháng 1 năm 2010 – Ngày 11 tháng 2 năm 2010
Kế nhiệm
Crazy Love của Michael Bublé
Tiền nhiệm
Glee: The Music, Volume 1 của Glee Cast
Brother của Boyzone
Brother của Boyzone
Album quán quân UK Albums Chart
Ngày 28 tháng 2 năm 2010 – Ngày 8 tháng 3 năm 2010 (Lần 1)
Ngày 21 tháng 3 năm 2010 – Ngày 28 tháng 3 năm 2010 (Lần 2)
Ngày 11 tháng 4 năm 2010 – Ngày 18 tháng 4 năm 2010 (Lần 3)
Kế nhiệm
Lights của Ellie Goulding
Brother của Boyzone
The Defamation of Strickland Banks của Plan B
Tiền nhiệm
Viimeinen Atlantis của Stam1na
Album quán quân Finnish Albums Chart
Ngày 4 tháng 3 năm 2010 – Ngày 11 tháng 3 năm 2010
Kế nhiệm
Singlet 2004-2009 của Apulanta
Tiền nhiệm
Holy Smoke của Gin
Humour and the Misfortune of Others của Hollie Smith
Album quán quân New Zealand Albums Chart
Ngày 15 tháng 3 năm 2010
Ngày 29 tháng 3 năm 2010
Kế nhiệm
Humour and the Misfortune of Others của Hollie Smith
The Experiment của Dane Rumble
Tiền nhiệm
April Uprising của John Butler Trio
Album quán quân Australian Albums Chart
Ngày 12 tháng 4 năm 2010 – Ngày 3 tháng 5 năm 2010
Kế nhiệm
My World 2.0 của Justin Bieber
Tiền nhiệm
Teardrops của Tom Rice
Album quán quân Belgian (Flanders) Albums Chart
Ngày 26 tháng 6 năm 2010
Kế nhiệm
Registrated 2 của Regi Penxten

Lịch sử phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc giaNgày phát hànhĐịnh dạngNhãn hiệuPhiên bản
Nhật Bản18 tháng 11, 2009[77]CD, tải nhạc sốUniversal MusicDeluxe
Australia20 tháng 11, 2009[78][79][80]Deluxe, Limited
ChileStandard, Deluxe
Đức
IrelandDeluxe
Hoa Kỳ23 tháng 11, 2009[81]Interscope, Streamline, Kon Live, Cherrytree
Vương Quốc AnhPolydor
CanadaUniversal Music
Argentina[82]
Brasil27 tháng 11 năm 2009[83]
Hoa Kỳ28 tháng 11, 2009Interscope, Streamline, Kon Live, Cherrytree
Canada1 tháng 12, 2009[84]Universal MusicStandard
Hoa Kỳ15 tháng 12, 2009[85]Box-setInterscope, Streamline, Kon Live, CherrytreeSuper Deluxe
LPStandard
Australia18 tháng 12, 2009[86]Digital downloadUniversal MusicStandard (Explicit version)
21 tháng 12, 2009[87]CD
Hoa Kỳ26 tháng 1, 2010[88]Digital downloadInterscope, Streamline, Kon Live, Cherrytree
Trung Quốc1 tháng 2, 2010[89]CDUniversal MusicStandard
Nhật Bản16 tháng 4, 2010[90]CD + DVDUniversal MusicStandard (Explicit Version)
Thế giới3 tháng 5, 2010[91]USB DriveInterscope, Streamline, Kon Live, CherrytreeLimited (Explicit Version)
Ý8 tháng 6, 2010[92]CDUniversal MusicLimited Slipcase

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Lady Gaga 'Excited' As Fame Monster Named Top-Selling 2010 Album”. MTV News. ngày 28 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2010.
  2. ^ “Album của Lady Gaga bán chạy nhất năm 2010”. vnexpress.net. ngày 28 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2010.
  3. ^ “53rd annual Grammy awards: The winners list”. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2011. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
  4. ^ Pietrolungo, Silvio (ngày 2 tháng 12 năm 2009). “Susan Boyle Sees Dream Soar To No. 1 On Billboard 200”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2009.
  5. ^ Grein, Paul (ngày 2 tháng 12 năm 2009). “Week Ending Nov. 29, 2009: Women Take Charge”. Yahoo!. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 12 năm 2009.
  6. ^ 12 tháng 12 năm 2009 “Billboard Dance/Electronic Albums” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 12 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2009.
  7. ^ a b “Searchable Database – RIAA – Lady Gaga”. Recording Industry Association of America. ngày 7 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2010.
  8. ^ Trust, Gary (ngày 15 tháng 2 năm 2011). “Arcade Fire, Lady Antebellum, Esperanza Spalding Were Least Likely Grammy Winners, Based On Chart History”. Billboard. New York: Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2011.
  9. ^ 30 tháng 1 năm 2010 “Canadian Albums Chart: Week Ending ngày 20 tháng 1 năm 2010” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 30 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 11 năm 2010.
  10. ^ “Lady Gaga – The Fame Monster (album)”. Australian Recording Industry Association australian-charts.com. ngày 12 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2010.
  11. ^ a b “Lady Gaga - The Fame Monster”. Recording Industry Association of New Zealand. Hung Medien. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2010.
  12. ^ a b c d e f g h i j k l m n o “Lady Gaga – The Fame Monster (album)”. Ultratop 50. Hung Medien. Truy cập ngày 1 tháng 12 năm 2009.
  13. ^ a b Reporter, MC. “Lady Gaga an der Spitze der Album-Charts”. Media Control Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 1 năm 2010.
  14. ^ a b “Japanese Oricon Top 30 Albums”. Oricon (bằng tiếng Nhật). Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2010.
  15. ^ a b c “Lady Gaga – The Fame positions”. The Official Charts Company. ChartStats.com. ngày 30 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009.
  16. ^ “Lady Gaga and Beyoncé – Telephone”. The Official Charts Company. ChartStats.com. ngày 30 tháng 11 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009.
  17. ^ Sexton, Paul (ngày 4 tháng 2 năm 2010). “Lady Gaga, Ke$ha Rule Euro Charts”. Billboard. Nielsen Business Media, inc. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2010.
  18. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – Q4 2010”. International Federation of the Phonographic Industry. tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 8 năm 2010.
  19. ^ Harding, Cortney (ngày 1 tháng 10 năm 2009). “Lady Gaga: First Lady”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2009.
  20. ^ Reporter, RS (ngày 29 tháng 9 năm 2009). “Lady Gaga Readies New Single for "SNL," "The Fame" Re-Release”. Rolling Stone. Jann Wenner. ISSN 0035-791X. |ngày truy cập= cần |url= (trợ giúp)
  21. ^ Reporter, RS (ngày 5 tháng 10 năm 2009). “Lady Gaga Fights Madonna, Debuts "Bad Romance" on "Saturday Night Live". Rolling Stone. Jann Wenner. ISSN 0035-791X. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2009.[liên kết hỏng]
  22. ^ “SHOWstudio presents Alexander McQueen S/S10 Live”. SHOWstudio.com. ngày 7 tháng 10 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2009.
  23. ^ Pietroluongo, Silvio (ngày 5 tháng 11 năm 2009). “DeRulo Tops Hot 100 But Swift Swoops In”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  24. ^ 14 tháng 11 năm 2009 “Canadian Hot 100 – Week of ngày 14 tháng 11 năm 2009” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 14 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 5 tháng 11 năm 2009.
  25. ^ “Chartifacts – Week Commencing: ngày 30 tháng 11 năm 2009 Issue #1031” (PDF). ARIA Charts Pandora.nla.gov.au. ngày 30 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2009.
  26. ^ Vena, Jocelyn (ngày 16 tháng 2 năm 2010). “Lady Gaga Pays Tribute To Alexander McQueen At Brit Awards”. ‘‘MTV’’. MTV Networks. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2010.
  27. ^ Vena, Jocelyn (ngày 8 tháng 3 năm 2010). “Lady Gaga's 'Telephone' Video To Premiere Thursday Night”. ‘‘MTV’’. MTV Networks. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2010.
  28. ^ Pietrolungo, Silvio (ngày 17 tháng 3 năm 2010). “Rihanna's 'Rude Boy' rules Hot 100”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2010.
  29. ^ Trust, Gary (ngày 15 tháng 3 năm 2010). “Lady Gaga, Beyonce Match Mariah's Record”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2010.
  30. ^ “Lady Gaga – Gaga Still Releasing Alejandro In U.S.”. contactmusic. ngày 5 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2010.
  31. ^ “Lady GaGa Will Release Alejandro As Next Single”. MTV. MTV Networks. ngày 6 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2010.
  32. ^ “Future Releases”. FMQB. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010.
  33. ^ “Lady Gaga – Alejandro (bài hát)”. Ultratop 50. Hung Medien. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2010.
  34. ^ “Billboard – Lady Gaga – Alejandro”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2010.
  35. ^ “CAPIF – Argentinian Albums Chart”. Argentine Chamber of Phonograms and Videograms Producers. ngày 9 tháng 8 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 4 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2010.
  36. ^ “CD - TOP 20 Semanal” (bằng tiếng Brazilian Portuguese). Associação Brasileira dos Produtores de Discos. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 2 năm 2015. Truy cập 2010-14-05. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)Quản lý CS1: ngôn ngữ không rõ (liên kết)
  37. ^ “Lady Gaga Album & Song Chart History: Canadian Albums”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 8 năm 2010.
  38. ^ “Croatian International Albums Chart” (bằng tiếng Croatia). HDU-Toplista.com. 8 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2011.
  39. ^ “Fame Monster - TOP50 Prodejní”. International Federation of the Phonographic Industry. TOP50 Prodejní. 17 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010.
  40. ^ “Bảng xếp hạng châu Âu”. Associação Brasileira dos Produtores de Discos. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
  41. ^ “Top 40 album- és válogatáslemez- lista”. Mahasz (bằng tiếng Hungary). Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2010.
  42. ^ “Bảng xếp hạng Ireland”. Associação Brasileira dos Produtores de Discos. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
  43. ^ “Official Retail Sales Chart - OLiS Poland”. OLiS. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2010.
  44. ^ “Российский чарт 01-2010”. 2M-Online (bằng tiếng Nga). Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2010.
  45. ^ “Bảng xếp hạng Hoa Kỳ”. Associação Brasileira dos Produtores de Discos. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
  46. ^ 12 tháng 12 năm 2009 “Bảng xếp hạng Hoa Kỳ” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Associação Brasileira dos Produtores de Discos. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
  47. ^ “ARIA album Chart week of 05/04/2010”. Australian Recording Industry Association. 2010. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2010.
  48. ^ “Brazil certifications 2010”. Associação Brasileira dos Produtores de Discos. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
  49. ^ “Gold and Platinum – Albums − 2010” (bằng tiếng Hà Lan). International Federation of the Phonographic Industry. 24 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2010.
  50. ^ “Album Top 20 Week 41 2010”. International Federation of the Phonographic Industry (bằng tiếng Đan Mạch). Hitlisten. access-date =2010-10-23. Thiếu dấu sổ thẳng trong: |date= (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  51. ^ “IFPI Platinum Europe Awards – 2010: Q2”. International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2010.
  52. ^ “Finnish Certification”. International Federation of the Phonographic Industry. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2010.
  53. ^ “Double Platinum certifications Albums - 2009”. Syndicat National de l'Édition Phonographique (bằng tiếng Pháp). Disqueenfrance. 9 tháng 12 năm 2021. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2011. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)
  54. ^ “IFPI Middle East Awards – 2010”. International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2011.
  55. ^ “Certifications Adatbázis 2010” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2010. Đã bỏ qua văn bản “date” (trợ giúp)
  56. ^ “GFK Certificazioni Album e Compilation” (PDF) (bằng tiếng Ý). Federation of the Italian Music Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 12 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2010. Đã bỏ qua văn bản “date” (trợ giúp); Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)
  57. ^ “IRMA certifications awards 2009”.
  58. ^ “ゴールド等認定作品一覧 2010年12月” [Works Receiving Certifications List (Gold, etc) (December 2010)]. RIAJ (bằng tiếng Nhật). 9 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 1 năm 2011.
  59. ^ “Chart# 1711 - New Zealand Top 40 Albums”. Recording Industry Association of New Zealand. ngày 8 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2010.
  60. ^ “Oficjalna Lista Sprzedazy” (bằng tiếng Ba Lan). OLiS. 31 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2010.
  61. ^ “Russia Top 25>> 23-2010” (bằng tiếng Nga). 2m-online. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2010.
  62. ^ “ARIA Charts: Year End: Top 100 Albums 2009”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2009.
  63. ^ “Album 2009 - Hitlisten.NU”. Tracklisten. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
  64. ^ “Best of 2009”. Irish Recorded Music Association. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2010.
  65. ^ “Årslista Albums – År 2009”. Swedish Recording Industry Association. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 6 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 10 năm 2010.
  66. ^ “Jaaroverzichten 2010 (Flanders)” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
  67. ^ “Ultratop Belgian Charts”. ultratop.be. 26 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
  68. ^ “Charts Year End: Canadian Albums Chart”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. 11 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
  69. ^ “Album 2010 Top-100”. International Federation of the Phonographic Industry (bằng tiếng Đan Mạch). Nielsen Music Control. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2010.
  70. ^ “Jaaroverzichten 2010”. MegaCharts (bằng tiếng Hà Lan). Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
  71. ^ “Charts Year End: European Top 100 Albums”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. 22 tháng 12 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
  72. ^ “Myydyimmät levyt - 2010”. IFPI. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2010.
  73. ^ “Italian Annual Top 100 Download Chart” (bằng tiếng Ý). FIMI. 17 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2011.
  74. ^ “アルバム 年間ランキング-ORICON STYLE ランキング” (bằng tiếng Nhật). Oricon. ngày 20 tháng 12 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2010.
  75. ^ “Best of 2010: Top Billboard 200”. Billboard. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.
  76. ^ “Best of 2010: Top Dance/Electronic Albums”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
  77. ^ “The Monster - Lady Gaga”. Universal Music. 30 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2009.
  78. ^ “The Fame Monster”. ladygaga.com.au. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2010.
  79. ^ “The Fame Monster: Limited Edition Dual Album CD”. ladygaga.com.au. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2010.
  80. ^ “The Fame Monster - Lady GaGa (Mimix Chile)”. Mimix.cl. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2009.
  81. ^ “The Fame Moster 2 Disc”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. 24 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2009.
  82. ^ “THE FAME MONSTER (2CDS)”. Musimundo. 23 tháng 11 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2010.
  83. ^ “Lady Gaga - The Fame Monster (Brazil)”. livrariacultura.com.br. 12 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2009.[liên kết hỏng]
  84. ^ The Fame Monster. HMV Group. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2009.[liên kết hỏng]
  85. ^ “Lady Gaga Releases Brand New Album on November 23”. Interscope Records. 12 tháng 11 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2009.
  86. ^ “The Fame Monster Australia”. iTunes. Truy cập ngày 22 tháng 4 năm 2010.
  87. ^ “Lady Gaga - The Fame Monster (CD, Album, Exp) at Discogs”. Discogs. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2010.
  88. ^ “The Fame Monster (Explicit)”. iTunes. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
  89. ^ “Lady Gaga: The Fame Monster”. Amazon.cn. 1 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2010.[liên kết hỏng]
  90. ^ “The Fame Monster”. Discogs. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010. Đã bỏ qua văn bản “(Explicit)” (trợ giúp)
  91. ^ “phát hành trên toàn thế giới The Fame Monster. IBS.it. 8 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
  92. ^ “Italian release of The Fame Monster. IBS.it. 8 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/The_Fame_Monster