Wiki - KEONHACAI COPA

Alejandro (bài hát)

"Alejandro"
Đĩa đơn của Lady Gaga
từ album The Fame Monster
Phát hành20 tháng 4 năm 2010
Định dạngTải kĩ thuật số, đĩa đơn CD, 7"
Thu âm2009; FC Walvisch, Amsterdam[1]
Thể loạiEuropop, Synthpop
Thời lượng4:34
Hãng đĩaInterscope, Streamline, Kon Live, Cherrytree
Sáng tácStefani Germanotta, RedOne[2]
Sản xuấtRedOne
Thứ tự đĩa đơn của Lady Gaga
"Telephone"
(2010)
"Alejandro"
(2010)
"Dance in the Dark"
(2010)

"Alejandro" là bài hát của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Mĩ Lady Gaga. Đây là đĩa đơn thứ ba trích từ đĩa mở rộng (EP) The Fame Monster (2009) của cô. Bài hát được sáng tác và sản xuất bởi Lady Gaga và RedOne.

Về mặt âm nhạc, bài hát mang giai điệu europop. Bài hát được đánh giá tích cực bởi các nhà phê bình. Họ cho rằng giai điệu của "Alejandro" bị chịu ảnh hưởng bởi các nhóm nhạc như ABBA hay Ace of Base. Sau khi phát hành, bài hát xuất hiện trong các bảng xếp hạng tại các quốc gia Úc, Vương quốc Anh, Canada, New Zealand, Thụy Điển và Hoa Kỳ và đứng vị trí quán quân tại các quốc gia Phần Lan, Ba Lan, Nga, Bulgaria và Romania. "Alejandro" là ca khúc thứ bảy liên tiếp lọt vào top-ten bảng xếp hạng danh giá Billboard Hot 100.

Video âm nhạc của "Alejandro" được đạo diễn bởi nhiếp ảnh gia Steven Klein và lấy cảm hứng từ tình cảm của Gaga với những người đồng tính nam, với cảnh Gaga khiêu vũ với họ và đôi lúc họ bán khỏa thân. Video được các nhà phê bình khen ngợi, nhưng cũng bị những tín đồ Thiên chúa giáo phản bác do có nhiều hình ảnh bị coi là báng bổ tôn giáo. Xuyên suốt clip, Lady Gaga chọn màu chủ đạo là màu đỏ (màu máu) và màu đen sẫm.

Hoàn cảnh ra đời[sửa | sửa mã nguồn]

Thật ra, hãng đĩa của Lady Gaga muốn chọn ca khúc Dance in the Dark làm đĩa đơn thứ 3 cho album The Fame Monster thay vì "Alejandro" nhưng cô nhất quyết không chịu. Một cuộc tranh cãi gay gắt đã nổ ra và cuối cùng thì hãng đĩa cũng đồng ý và được phép bấm máy dưới sự hướng dẫn của đạo diễn "Steven Klein". Lady Gaga cho biết: "Video này nói về tình bạn trong sáng giữa tôi và những người đàn ông đồng tính. Nó như một lời thú nhận về sự ghen tị của tôi đối với sự dũng cảm của họ - sự dũng cảm bắt buộc phải có một khi họ muốn ở bên người họ yêu. Tôi nghĩ việc là một dân đồng tính lộ diện với xã hội về bản chất của mình đòi hỏi phải có một nghị lực phi thường. Tôi trân trọng điều đó và đứng trên lập trường một người phụ nữ tôi không phải lúc nào cũng có tính chiếm hữu hoàn toàn. Trong clip, tôi khao khát muốn có được tình yêu của những người bạn đồng giới, nhưng họ một mực không yêu tôi."[3].

Video âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Tổng quan[sửa | sửa mã nguồn]

Lady Gaga trong trang phục nữ tu, bên cạnh là người bạn trai "Alejandro" đã khuất của cô.

Một thời gian khá lâu kể từ khi đĩa đơn gây tranh cãi Telephone được phát hành thì đến ngày 23 tháng 3 năm 2010, trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Women's Wear Daily, Lady Gaga tiết lộ ca khúc "Alejandro" đã được chọn làm đĩa đơn tiếp theo cho EP The Fame Monster cùng với đạo diễn Steven Klein sẽ trực tiếp chỉ đạo thực viện video cho ca khúc này[4][5][6]. Tuy nhiên vẫn như thường lệ, Lady Gaga lại khá kín tiếng về sản phẩm sắp tới của mình. Trong khi đại đa số những nghệ sĩ khác thường tung hàng loạt những đoạn video quảng cáo cũng như một số bức ảnh trước khi MV của họ ra mắt thì Lady Gaga lại rất hạn chế để "lộ hàng". Việc làm này âu cũng có mục đích của nó vì Gaga muốn tác phẩm của cô trông thật hoàn hảo, thật tỉ mỉ từng li từng tí cho đến giây phút cuối cùng mới có thể gây bất ngờ trọn vẹn, đạt đến một thành công nhất định trên thị trường quốc tế. Ban đầu, video "Alejandro" dự định sẽ được xây dựng như một phần tiếp theo của MV Telephone còn đang dang dở trước đó, nhưng sau này Lady Gaga đã thay đổi quyết định và cô sẽ thực hiện việc này vào một tương lai gần[7].

Sau những thông tin được tiết lộ về "Alejandro", trên các diễn đàn lại tràn ngập nhiều lời bàn tán của người hâm mộ và họ vô cùng háo hức để được thưởng thức MV này. Giữ đúng lời hứa, đến ngày 1 tháng 6 năm 2010, trong cuộc phỏng vấn với chương trình truyền hình Larry King Live, Lady Gaga đã tung ra một đoạn clip ngắn từ video Alejandro để mọi người được thưởng thức và đúng với mục đích quảng cáo, đoạn clip này chỉ dài vỏn vẹn 19 giây. Đến thời điểm này, cả thế giới mới có thể tận mắt chứng kiến những hình ảnh táo bạo giống như của nữ hoàng nhạc pop Madonna và nữ ca sĩ da màu Janet Jackson. Bởi trong "Alejandro", cả Gaga và những vũ công nam đều có kiểu tóc ngắn giống như clip Rhythm Nation của Janet pha trộn nét cổ điển kiểu Like a Prayer của Madonna[8]. Ca khúc lại một lần nữa nhận được nhiều lời khen ngợi tích cực từ phía nhà phê bình bởi Lady Gaga đã rất thành công trong việc chưa một lần nào các clip của cô trùng lặp về ý tưởng với bất cứ một ngôi sao nào khác. Nhưng trong "Alejandro", cô lại va chạm tới không ít tới ranh giới như người đồng tính hay tu sĩ… Điều này chắc chắn sẽ gây ra một làn sóng phản hồi, cả tích cực và phản đối...[9]. Video được công chiếu trên trang web chính thức và trên trang mạng xã hội YouTube/Vevo của Lady Gaga vào ngày 8 tháng 6 năm 2010, buổi trưa ở EDT (8 tháng 6 năm 2010, 16:00 UTC)[10]. Hiện tại clip Alejandro có khoảng trên 250 triệu lượt người xem trên YouTube, và khi video mới được tung ra, chỉ trong vòng 10 phút, trang web của cô đã bị sập vì lượng người truy cập quá đông. Phát biểu về Lady Gaga, nhà nhiếp ảnh thời trang danh tiếng Steve Klein cho biết: "Cô ấy thích những anh hùng ca và video này hoàn toàn phù hợp với tính cách của Lady. Chúng tôi kết hợp các điệu nhảy với lối tường thuật và tính siêu thực trong ca khúc. Quá trình này thể hiện niềm khao khát của Gaga nhằm tiết lộ những tình cảm trong trái tim của cô ấy và sự chịu đựng bấy lâu của tâm hồn một người phụ nữ". Chỉ với hai tông màu đentrắng, nhưng video Alejandro vẫn thu hút được sự chú ý bởi những cảnh nóng bỏng với hình ảnh các vũ công nam hấp dẫn trong trang phục bán khỏa thân và cảnh Lady Gaga "quằn quại" trên giường ngủ.

Sự tiếp nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Tuy nhiên, vừa mới phát hành được một thời gian, "Alejandro" đã vấp phải không ít lời chỉ trích lớn đối với dư luận về các hình ảnh bạo lực, gợi cảm trong ca khúc. Lý do là bởi trong video có không ít những hình ảnh liên quan đến tôn giáo, và một trong số đó là sự xuất hiện của cây thánh giá trong cảnh phòng the đầy trần tục. Đây bị cho là sự xúc phạm nặng nề đối với đạo thiên chúa linh thiêng. Nhưng sau đó đạo diễn Steven Klein đã lên tiếng và ông trả lời rằng video "Alejandro" không mang bất cứ ý nghĩa tiêu cực nào cả:

"Video Alejandro lột tả cuộc chiến dữ dội mà nhân vật phải trải qua, cuộc chiến giữa phần u tối của thế giới này với sự cứu rỗi của tâm hồn. Chính vì vậy mà ở đoạn cuối MV, Lady Gaga đã lựa chọn trở thành một nữ tu, và nguyên nhân miệng và mắt của cô ấy biến mất là bởi cô ấy đã rút khỏi thế giới u tối để chuyên tâm cầu nguyện và suy ngẫm."

Lady Gaga nuốt tràng hạt, một trong những cảnh bị cho là xúc phạm tới Thiên Chúa giáo.

Tuy không chỉ chịu sự phản đối của dư luận mà video "Alejandro" còn bị nữ ca sĩ thành danh cùng thời với Lady Gaga - Katy Perry mạnh miệng lên tiếng phản bác. Lúc đầu, Katy Perry đã viết trên trang Twitter của cô rằng: "Sử dụng những hình ảnh và lời lẽ xúc phạm chỉ để mua vui thì cũng chẳng khác gì những trò câu khách rẻ tiền". Tuy Katy không chỉ đích xác tên ai, nhưng ai cũng có thể đoán người bị Katy chỉ trích chính là Lady Gaga. Nhưng sau đó, Katy đã lên tiếng phủ nhận và cho rằng cô viết những lời lẽ đó trên Twitter chẳng có gì liên quan đến Gaga và cô tôn trọng những việc người khác làm. Mặc dù vậy, nhưng rồi một thời gian sau, Katy Perry đã chính thức lên tiếng về Alejandro với những ngôn từ vô cùng gay gắt và nặng nề: "Rõ ràng Alejandro chỉ là một MV ca nhạc câu khách rẻ tiền với những hình ảnh gợi dục và tôn giáo. Thật không hiểu nổi tại sao cô ta lại có thể mặc một bộ đồ của nữ tu sỹ để thực hiện MV này. Tôi thấy phát sợ khi thấy cô ta nuốt… tràng hạt…". Thậm chí Katy Perry còn tỏ ý khinh thường những hình ảnh trong Alejandro: "Tôi thật không thể tưởng tượng được sao cô ta lại có thể kết hợp được cả tâm linh và tình dục với nhau. Đây là một sự báng bổ khó chấp nhận và thật xấu xa. Tôi không phủ nhận việc mình đã từng hôn một cô gái nhưng tôi không bao giờ làm việc đó khi đang ôm một cây thánh giá. Thánh giá là một vật thiêng liêng nơi thánh đường. Nó không thể mang vào… phòng ngủ được"[11]. Tuy vậy, Katy cũng đã khẳng định trong cuộc phỏng vấn rằng:"Như tôi đã nói rất nhiều lần trên Twitter, tôi là một fan lớn của Lady Gaga, của Madonna và của Russell Brand. Nhưng cho dù sự việc có thế nào đi chăng nữa thì phản ứng này của Katy cũng như giới phê bình, người hâm mộ hay của chính Lady Gaga chỉ khiến cho "Alejandro" càng thêm nổi tiếng và "hút khách" mà thôi.[12]

Diễn biến trên bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Lady Gaga trình diễn "Alejandro" trong chuyến lưu diễn The Monster Ball Tour.

Tuy bị dư luận phản đối, nhưng ca khúc lại rất thành công trên thị trường quốc tế. Tại Hoa Kỳ, Alejandro ra mắt lần đầu tiên tại vị trí 72 trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 vào ngày 17 tháng 4 năm 2010[13]. Bài hát dừng lại tại vị trí thứ 5, giúp Lady Gaga trở thành nữ nghệ sĩ duy nhất phá vỡ kỷ lục của ca sĩ R&B Monica khi có 7 đĩa đơn liên tiếp trích từ cùng một tập nhạc, lọt vào top ten tại thị trường Mỹ[14]. Ca khúc xuất hiện trên hai bảng xếp hạng Mainstream Top 40 ở vị trí 35 và Hot Digital Songs tại vị trí 71 sau khi tiêu thụ được 24.000 bản download kỹ thuật số theo như thống kê của Nielsen Soundscan[15]. Được một thời gian dao động vị trí xếp hạng, Alejandro leo lên giành đến #4 trên Mainstream Top 40, trở thành đĩa đơn đầu tiên của Lady Gaga không giành được vị trí quán quân. Bài hát cũng ra mắt trên bảng xếp hạng Hot Dance Club Songs tại vị trí 40[16] và giành được vị trí đầu bảng vào ngày 7 tháng 7 năm 2010[17]. Ca khúc đã bán được 1.924.000 lượt tải kỹ thuật số theo Nielsen Soundscan trên bảng xếp hạng này[18]. Ở Canada, Alejandro đứng vị trí 78 trên Canadian Hot 100 vào ngày 4 tháng 4 năm 2010[19] và leo lên đến vị trí thứ 4 vào ngày 8 tháng 5 năm 2010[20].

Ngày 5 tháng 4 năm 2010, ca khúc ra mắt tại vị trí 49 ở Úc trên bảng xếp hạng ARIA Singles Chart[21], đáng lẽ bài hát đã giành ngôi vị quán quân nhưng vì lúc đó Lady Gaga chưa phát hành video cho Alejandro nên đành đứng thứ 2 và sau đó tuột hạng dần[22]. "Alejandro" được chứng nhận đĩa bạch kim của Hiệp hội Công nghiệp Thu âm Úc (ARIA) dành cho việc tiêu thụ hết 70.000 bản chỉ trong một tuần[23]. Ca khúc đồng thời cũng ra mắt ở vị trí thứ 35 tại New Zealand vào ngày 21 tháng 4 năm 2010[24] và sau đó đã giành được vị trí thứ 11[25].

Cùng với việc phát hành EP The Fame Monster, "Alejandro" xuất hiện trên UK Singles Chart ở vị trí thứ 75 vào ngày 29 tháng 11 năm 2009 do doanh số tiêu thụ bằng việc download kỹ thuật số[26]. Tại thị trường Châu Âu, ca khúc giành vị trí quán quân ở Bungary, Phần Lan, Rumani, Ba Lan, Israel..., đứng vị trí tốp 5 ở Bỉ, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Pháp, Đức, Hungary, Ireland, Ý, Hà Lan, Na Uy, Slovakia, Thụy ĐiểnThụy Sĩ[27]. Đây là ca khúc thứ hai của Lady Gaga dứng đầu bảng xếp hạng Russian Airplay ChartNga. Bài hát đã giúp Lady Gaga lập kỷ lục nữ nghệ sĩ nước ngoài duy nhất hiện nay khi có 2 đĩa đơn trích từ cùng một album đứng ngôi vị số 1 ở bảng xếp hạng này (vị trí đầu bảng lần thứ nhất là ca khúc Bad Romance). Sở dĩ Lady Gaga nhận được kỷ lục này vì tuy Nga là nước nằm trong lãnh địa Châu Âu nhưng bảng xếp hạng âm nhạc của nước này rất khó lọt vào, một phần cũng vì lý do thị hiếu, tập quán nghe nhạc của khán giả tại Nga không phù hợp với nền nhạc sôi nổi, hiện đại ở nước ngoài.

Danh sách ca khúc và định dạng[sửa | sửa mã nguồn]

Thông tin bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lady Gaga – trích dẫn, giọng hát, hợp tác sản xuất, sắp xếp thanh nhạc
  • Eelco Bakker - kỹ thuật âm thanh
  • Robert Orton - pha trộn âm thanh
  • RedOne - sản xuất, dụng cụ và lập trình, sắp xếp giọng hát, chỉnh sửa giọng hát, âm thanh kỹ thuật, sao lưu giọng hát
  • Johnny Severin - chỉnh sửa giọng hát

Nguồn:[1]

Xếp hạng và doanh số chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Thành công trên các bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Thứ tự chức vụ
Tiền nhiệm
"Pretty Mess" của Erika Jayne
Đĩa đơn quán quân ‘‘Billboard’’ Hot Dance Club Play (Mỹ)
Ngày 3 tháng 7 năm 2010
Kế nhiệm
"Commander" của Kelly Rowland hợp tác với David Guetta
Tiền nhiệm
"Waka Waka (This Time for Africa)" của Shakira
"Minä" của Kymppilinja hợp tác với Mariska
"Waka Waka" (This Time for Africa) của Shakira
Đĩa đơn quán quân Finnish Singles Chart
Ngày 23 tháng 6 năm 2010 – Ngày 7 tháng 7 năm 2010 (Lần 1)
Ngày 14 tháng 7 năm 2010 – Ngày 21 tháng 7 năm 2010 (Lần 2)
Ngày 31 tháng 7 năm 2010 – Ngày 7 tháng 8 năm 2010 (Lần 3)
Kế nhiệm
"Minä" của Kymppilinja hợp tác với Mariska
"Waka Waka (This Time for Africa)" của Shakira
"Waka Waka (This Time for Africa)" của Shakira
Tiền nhiệm
"Whataya Want from Me" của Adam Lambert
"Can't Fight This Feeling " của Junior Caldera hợp tác với Ellis-Be
Đĩa đơn quán quân Polish Airplay Charts
Ngày 10 tháng 7 năm 2010 – Ngày 23 tháng 7 năm 2010 (Lần 1)
Ngày 31 tháng 7 năm 2010 – Ngày 13 tháng 8 năm 2010 (Lần 2)
Kế nhiệm
"California Gurls" của Katy Perry
"Morena" của Tom Boxer hợp tác với Antonia
Tiền nhiệm
"We No Speak Americano" của Yolanda Be CoolDCUP
"Alors on Danse" của Stromae
Đĩa đơn quán quân Romanian Airplay Chart
Ngày 17 tháng 7 năm 2010 – Ngày 31 tháng 7 năm 2010 (Lần 1)
Ngày 7 tháng 8 năm 2010 – Ngày 29 tháng 8 năm 2010 (Lần 2)
Kế nhiệm
"Alors on danse" Stromae
"I Like (the Trumpet)" của DJ Sava hợp tác với. Raluka
Tiền nhiệm
"California Gurls" của Katy Perry
Đĩa đơn quán quân German Airplay Chart
Ngày 21 tháng 9 năm 2010 – Ngày 28 tháng 9 năm 2010
Kế nhiệm
"We No Speak Americano" của Yolanda Be Cool và DCUP
Tiền nhiệm
"Láska v housce" của Xindl X hợp tác với Olga Lounová
Đĩa đơn quán quân Czech Airplay Chart
Ngày 1 tháng 9 năm 2010 – Ngày 7 tháng 9 năm 2010
Kế nhiệm
"We No Speak Americano" của Yolanda Be Cool và DCUP
Tiền nhiệm
"Baby" của Justin Bieber
Đĩa đơn quán quân Brazil Billboard Pop Songs
Tháng 8 năm 2010 – Tháng 10 năm 2010
Kế nhiệm
"Teenage Dream" của Katy Perry
Tiền nhiệm
"Illúzió" của Hooligans
Đĩa đơn quán quân Hungarian Airplay Chart
Ngày 20 tháng 9 năm 2010 – Ngày 14 tháng 11 năm 2010
Kế nhiệm
"Love the Way You Lie" của Eminem hợp tác với Rihanna

Phát sóng trên đài phát thanh và lịch sử phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

VùngNgàyĐịnh dạng
Thụy Điển[82]9 tháng 11 năm 2010Tải kỹ thuật số - Đĩa đơn quảng cáo
Bỉ[83]
Hoa Kỳ [84]20 tháng 4, 2010Mainstream radio, Rhythm, Crossover
Bỉ[85]18 tháng 5, 2010The Remixes EP – Tải kỹ thuật số
Canada[86]
Đan Mạch[87]
Pháp[88]
Hà Lan[89]
Na Uy[90]
Bồ Đào Nha[91]
Thụy Điển[92]
Thụy Sĩ[93]
Hoa Kỳ[29][30][94]Maxi Single, EP, Tải kỹ thuật số
Hoa Kỳ[95]15 tháng 6, 2010The Remixes EP – CD Single
Vương Quốc Anh[96]28 tháng 6, 2010CD Single, 7"
Đức[97]2 tháng 7, 2010CD Single

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b The Fame Monster (Liner Notes) |format= cần |url= (trợ giúp). Interscope Records. 2009. Đã bỏ qua tham số không rõ |artist= (gợi ý |others=) (trợ giúp)
  2. ^ "Alejandro" writing credits”. Broadcast Music Incorporated. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2010.
  3. ^ “Alejandro”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 2010.
  4. ^ Odell, Amy (ngày 23 tháng 3 năm 2010). “Can Steven Klein Do Lady Gaga's 'Alejandro' Video Justice?”. New York. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2010.
  5. ^ Axelrod, Nick (ngày 23 tháng 3 năm 2010). “Steven Klein Said Shooting Lady Gaga Video”. Women's Wear Daily. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2010.
  6. ^ Seymour, Terri (ngày 6 tháng 5 năm 2010). “Lady Gaga Talks with 'Extra' About Her New Video”. The Xtra Factor. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2010.
  7. ^ Dinh, James (ngày 24 tháng 3 năm 2010). “Lady Gaga Says 'Alejandro' Video Won't Be 'Telephone' Sequel”. MTV. MTV Networks. Truy cập ngày 25 tháng 3 năm 2010.
  8. ^ Herrera, Monica (ngày 10 tháng 6 năm 2010). “Lady Gaga 'Alejandro' Video Premieres, Channels Vintage Madonna”. Billboard. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
  9. ^ Herrera, Monica (ngày 10 tháng 6 năm 2010). “Lady Gaga 'Alejandro' Video Premieres, Channels Vintage Madonna”. Billboard. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
  10. ^ Relax News (ngày 9 tháng 6 năm 2010). “New music videos of the week: "Alejandro," Eminem, Vengaboys”. The Independent. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2010.
  11. ^ “Katy Perry SLAMS Lady Gaga's 'Blasphemous' New Video”. The Huffington Post. ngày 8 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2010.
  12. ^ Vena, Jocelyn (ngày 14 tháng 6 năm 2010). “Katy Perry Explains Her Lady Gaga 'Blasphemy' Tweet”. MTV. MTV Networks. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2010.
  13. ^ Pietrolungo, Silvio (ngày 8 tháng 4 năm 2010). “Rihanna Streaks To A Fourth Week Atop Hot 100”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
  14. ^ Caulfield, Keith; Pietrolungo, Silvio (ngày 20 tháng 5 năm 2010). “Chart Moves: Lady Gaga, 'Glee,' Usher, Eminem and More”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 21 tháng 5 năm 2010.
  15. ^ Pietrolungo, Silvio (ngày 8 tháng 4 năm 2010). “Rihanna Streaks To A Fourth Week Atop Hot 100”. Billboard. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
  16. ^ Caulfield, Keith (ngày 17 tháng 5 năm 2010). “Chart Highlights: Pop, Adult Pop, Latin Songs & More”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2010.
  17. ^ Trust, Gary (ngày 22 tháng 6 năm 2010). “Chart Highlights: Pop Songs, Adult Contemporary”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2010.
  18. ^ Grein, Paul (ngày 15 tháng 9 năm 2010). “Week Ending Sept. 12, 2010: The Dulcet Tones Of Bruno Mars”. Yahoo!. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2010.
  19. ^ 4 tháng 4 năm 2010&order=gainer “Canadian Hot 100” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 3 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
  20. ^ 22 tháng 5 năm 2010 “Canadian Hot 100” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 22 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 14 tháng 5 năm 2010.
  21. ^ “Australia Singles Top 50”. Australian Recording Industry Association. acharts.us. ngày 5 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2010.
  22. ^ “Australia Singles Top 50”. Australian Recording Industry Association. acharts.us. ngày 26 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2010.
  23. ^ “ARIA Top 100 Singles: Week Commencing ngày 10 tháng 5 năm 2010” (PDF). Australian Recording Industry Association. ngày 4 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2010.
  24. ^ “New Zealand Top 40”. Recording Industry Association of New Zealand. acharts.us. ngày 20 tháng 4 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
  25. ^ a b “New Zealand Top 40”. Recording Industry Association of New Zealand. acharts.us. ngày 22 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2010.
  26. ^ a b “Lady Gaga – Alejandro – UK Singles Chart”. The Official Charts Company. ChartStats. ngày 5 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2010.
  27. ^ a b c d e f g h i j k “Lady Gaga – Alejandro – Song”. Ultratop 50. Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.
  28. ^ “Swedish download single – "Alejandro". iTunes Sweden. ngày 15 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2010.
  29. ^ a b “Alejandro – Lady Gaga – The Remixes EP”. Amazon.com. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2010.
  30. ^ a b “Alejandro – Lady Gaga – The Remixes EP”. iTunes. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2010.
  31. ^ 'Alejandro' French Single”. Amazon.fr. ngày 13 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  32. ^ a b c 'Alejandro' UK release date revealed!”. Ladygaga.co.uk. ngày 26 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2010.
  33. ^ “Alejandro”. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2010.
  34. ^ “Brasil Hot 100 Airplay”. Billboard Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Sao Paolo. 2: 84. Agosto de 2010. ISSN 977-217605400-2 Kiểm tra giá trị |issn= (trợ giúp). Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)
  35. ^ 8 tháng 7 năm 2009-09-48-53/nmc-charts/230-week29-1907-25072010.html “Bulgarian Airplay Top 5” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Nielsen BDS. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2010.[liên kết hỏng]
  36. ^ a b c “Billboard – Lady Gaga – Alejandro”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2010.
  37. ^ “RADIO TOP100 Oficiální – Lady Gaga – Alejandro – Czech Republic”. International Federation of the Phonographic Industry. ngày 13 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2010.
  38. ^ “Nederlandse Top 40 – Lady Gaga search results”. MegaCharts. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2010.
  39. ^ Billboard - Telephone - Lady Gaga Song Information”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 26 tháng 3 năm 2010.
  40. ^ http://www.germancharts.com/airplay_charts.asp?week=201030
  41. ^ “Chartverfolgong > Lady Gaga > Alejandro (2 Track)” (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. ngày 25 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2010.
  42. ^ a b “Hungarian Airplay Chart – Top 10 lista”. Mahasz (bằng tiếng Hungary). Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. ngày 20 tháng 9 năm 2010. Truy cập ngày 3 tháng 9 năm 20100. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |ngày truy cập= (trợ giúp)
  43. ^ “Ireland Singles Top 50”. Irish Recorded Music Association. ngày 10 tháng 6 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 18 tháng 6 năm 2010.
  44. ^ “Italian Singles Top 10”. Federation of the Italian Music Industry. ngày 2 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2010.
  45. ^ [https://web.archive.org/web/20080915153836/http://www.charts.co.il/charts.asp?id=12 “charts.co.il ���� ����� ��������”]. Charts.co.il. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 9 năm 2008. Truy cập 18 tháng 4 năm 2015. replacement character trong |tiêu đề= tại ký tự số 14 (trợ giúp)
  46. ^ “ZPAV Top5 Airplay 10.07.2010 – 16.07.2010”. Polish Music Charts. ngày 16 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2010.
  47. ^ “Romanian Top 100 Airplay 23.07.2010”. Romanian Top 100. ngày 23 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2010.
  48. ^ “Lady Gaga - Alejandro – TopHit.ru”. TopHit.ru. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2010.
  49. ^ “RADIO TOP100 Oficiální – Lady Gaga – Alejandro – Slovak”. International Federation of the Phonographic Industry. IFPI.sk. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2010.
  50. ^ “Alejandro”. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2010.
  51. ^ “Alejandro in the world chart”. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2010.
  52. ^ “Alejandro” (PDF). Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2010.
  53. ^ “Gold and Platinum Certifications – Singles – 2010”. Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2010.
  54. ^ “Certificeringer: 2011” (bằng tiếng Hà Lan). International FEderation of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 8 tháng 7 năm 2011.
  55. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2011.
  56. ^ “Bundesverband Musikindustrie: Gold-/Platin-Datenbank”. Bundesverband Musikindustrie. ngày 12 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 12 tháng 1 năm 2011.
  57. ^ “Certificazioni Download FIMI” (PDF). Federation of the Italian Music Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 22 tháng 12 năm 2011.
  58. ^ “Latest Gold / Platinum Singles”. RadioScope. ngày 8 tháng 8 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2010.
  59. ^ “Lenta.ru: Те же, в профиль” (bằng tiếng Nga). Lenta.ru. Truy cập ngày 5 tháng 2 năm 2011.
  60. ^ “Promusicae SEMANA 42: del 18.10.2010 al 24.10.2010” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Productores de Música de España. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2010.
  61. ^ “Guld & Platina Certifications of 2010” (PDF). International Federation of the Phonographic Industry. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2011.
  62. ^ “Swiss Certifications – Awards 2009”. International Federation of the Phonographic Industry. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2010.
  63. ^ “BPI – searchable datadase”. British Phonographic Industry. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2010.
  64. ^ “ARIA Charts – End Of Year Charts – Top 100 Singles”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2011.
  65. ^ “Jahreshitparade 2010”. Hitradio Ö3 (bằng tiếng Đức). Hung Medien. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2010.
  66. ^ “Jaaroverzichten 2010 (Flanders)” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
  67. ^ “Rapports annuels 2010 - Singles” (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
  68. ^ “2010 Year-End Canadian Hot 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. ngày 9 tháng 12 năm 2009. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.
  69. ^ “Track 2010 Top-50”. Tracklisten (bằng tiếng Đan Mạch). Nielsen Company. 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2011.
  70. ^ “2010 Dutch Year-end chart” (bằng tiếng Hà Lan). MegaCharts. Hung Medien. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
  71. ^ “2010 Year-End European Hot 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.[liên kết hỏng]
  72. ^ “Die deutschen Single”. Truy cập 18 tháng 4 năm 2015.
  73. ^ “MAHASZ Rádiós TOP 100 2010” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Truy cập ngày 10 tháng 3 năm 2011.
  74. ^ “2010 Year End Italian Singles Chart”. FIMI. 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2011.
  75. ^ “Topul celor mai difuzate piese în România în 2010” (bằng tiếng Romania). România Liberă. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 21 tháng 1 năm 2011.
  76. ^ “Топ-100. Горячие Новости: Топ-100 лучших песен 2010 года”. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011.
  77. ^ “2010 Spanish Year-end charts” (PDF) (bằng tiếng Tây Ban Nha). PROMUSICAE. ngày 29 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2011.
  78. ^ “2010 Year End Swiss Singles Chart”. Swiss Music Charts. 2011. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2011.
  79. ^ “2010 Year-End Billboard Hot 100 Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.
  80. ^ “2010 Year-End Hot Dance Club Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. ngày 9 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.
  81. ^ “2010 Year-End Pop Songs”. Billboard. Nielsen Business Media, Inc. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2010.
  82. ^ “Alejandro: Sweden Digital download”. iTunes. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2010.
  83. ^ “Alejandro: Belgium Digital download”. iTunes. Truy cập ngày 20 tháng 5 năm 2010.
  84. ^ “Radio Industry News, Music Industry Updates, Arbitron Ratings: 4/20 Mainstream”. FMQB. Friday Morning Quarterback Album Report, Inc. and Mediaspan Online Services. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 1 năm 2010. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2010.
  85. ^ “Alejandro – Lady GaGa”. iTunes. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  86. ^ “Alejandro (The Remixes) – Lady Gaga”. iTunes. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  87. ^ “Alejandro – Lady GaGa”. iTunes. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  88. ^ “Alejandro – Lady Gaga” (bằng tiếng Pháp). iTunes. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  89. ^ “Alejandro van – Lady Gaga” (bằng tiếng Hà Lan). iTunes. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  90. ^ “Alejandro – Lady GaGa”. iTunes. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  91. ^ “Alejandro – Lady GaGa”. iTunes. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  92. ^ “Alejandro – Lady GaGa”. iTunes. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  93. ^ “Alejandro – Lady GaGa” (bằng tiếng Đức). iTunes. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  94. ^ “Lady Gaga – Alejandro – Maxi Single”. Amazon.com. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2010.
  95. ^ “Lady Gaga Alejandro Merch – Shop the Lady Gaga Official Store”. bravadousa.com. ngày 25 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2010.
  96. ^ “Forthcoming UK Singles”. Radio One. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2010.
  97. ^ “Lady Gaga German CD single release”. Ladygaga.de. ngày 2 tháng 7 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Alejandro_(b%C3%A0i_h%C3%A1t)