Wiki - KEONHACAI COPA

Nadakaze (tàu khu trục Nhật)

Tàu khu trục Nhật Nadakaze chạy thử máy hết tốc độ, năm 1921
Lịch sử
Nhật Bản
Đặt hàng 1918
Xưởng đóng tàu Xưởng hải quân Maizuru
Đặt lườn 9 tháng 1 năm 1920
Hạ thủy 26 tháng 6 năm 1920
Hoạt động 30 tháng 9 năm 1920
Xếp lớp lại Chuyển thành Tàu tuần tra số 2, tháng 4 năm 1940
Xóa đăng bạ 30 tháng 9 năm 1945
Số phận Bị tàu ngầm Anh đánh chìm tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, ngày 25 tháng 7 năm 1945
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu khu trục Minekaze
Trọng tải choán nước
  • 1.345 tấn (tiêu chuẩn);
  • 1.650 tấn (đầy tải)
Chiều dài
  • 97,5 m (319 ft 11 in) mực nước
  • 102,6 m (336 ft 7 in) chung
Sườn ngang 9 m (29 ft 6 in)
Mớn nước 2,9 m (9 ft 6 in)
Động cơ đẩy
  • Turbine hơi nước Mitsubishi-Parsons
  • 4 × nồi hơi đốt dầu
  • 2 × trục
  • công suất 38.500 mã lực (28,7 MW)
Tốc độ 72 km/h (39 knot)
Tầm xa
  • 6.700 km ở tốc độ 26 km/h
  • (3.600 hải lý ở tốc độ 14 knot)
Thủy thủ đoàn 148
Vũ khí

Nadakaze (tiếng Nhật: 灘風) là một tàu khu trục thuộc lớp Minekaze được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là những tàu khu trục hàng đầu của Hải quân Nhật trong những năm 1930, nhưng đã bị xem là lạc hậu vào lúc nổ ra Chiến tranh Thái Bình Dương, Nadakaze được xếp lại lớp như một tàu tuần tra vào năm 1940, và chỉ đảm trách vai trò tuần tra và hộ tống cho đến khi bị tàu ngầm Anh HMS Stubborn đánh chìm tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, ngày 25 tháng 7 năm 1945.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Việc chế tạo lớp tàu khu trục kích thước lớn Minekaze được chấp thuận như một phần trong Chương trình Hạm đội 8-4 của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong giai đoạn năm tài chính 1917-1920, kèm theo lớp Momi cỡ trung vốn chia sẻ nhiều đặc tính thiết kế chung.[1] Được trang bị động cơ mạnh mẽ, những con tàu này có tốc độ cao và được dự định hoạt động như những tàu hộ tống cho những chiếc tàu chiến-tuần dương thuộc lớp Amagi mà cuối cùng đã không được chế tạo.[2]

Nadakaze, chiếc thứ năm của lớp tàu này, được chế tạo tại Xưởng hải quân Maizuru. Nó được đặt lườn vào ngày 9 tháng 1 năm 1920; được hạ thủy vào ngày 26 tháng 6 năm 1920; và được đưa ra hoạt động vào ngày 30 tháng 9 năm 1920.[3]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi hoàn tất, Nadakaze được phân về Quân khu Hải quân Yokosuka để hình thành nên Hải đội Khu trục 3 trực thuộc Hạm đội 2 Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Trong những năm 1938-1939, Nadakaze được phân công tuần tra tại khu vực bờ biển Bắc và Trung của Trung Quốc nhằm hỗ trợ cho những nỗ lực của quân Nhật trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật. Đến tháng 12 năm 1938, Hải đội Khu trục 3 được giải thể và Nadakaze được đưa về lực lượng dự bị.

Như là Tàu tuần tra số 2[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 4 năm 1940, sau khi được cải biến rộng rãi, Nadakaze quay trở lại hoạt động thường trực như một tàu tuần tra, và được đặt lại tên là Tàu tuần tra số 2 (tiếng Nhật: 第二哨戒艇, Dai-ni Shokaitei). Các sự cải biến bao gồm giảm bớt số nồi hơi xuống còn hai khiến tốc độ tối đa của nó chỉ còn 37 km/h (20 knot); số lượng hải pháo 120 mm (4,7 inch)/45 caliber Kiểu 3 giảm từ bốn còn hai khẩu, và mọi ống phóng ngư lôi được tháo dỡ. Thay vào đó, nó được bổ sung bốn khẩu đội phòng không 25 mm Kiểu 96 ba nòng cùng 18 mìn sâu. Phía đuôi tàu có thể chở theo hai xuồng đổ bộ Toku Daihatsu, có khả năng cho đổ bộ 250 thủy quân lục chiến.

Sau khi Chiến tranh Thái Bình Dương nổ ra, Tàu tuần tra số 2 được phân công nhiệm vụ tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải tại khu vực Philippines, Đông Ấn thuộc Hà Lanquần đảo Solomon. Đến tháng 1 năm 1943, nó được điều về chính quốc Nhật Bản hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Moji, Takao, Sài Gòn, ManilaSingapore. Vào tháng 12 năm 1943, nó trở thành tàu hỗ trợ cho Lực lượng Đổ bộ Hải quân Đế quốc Nhật Bản tại Balikpapan, Borneo.

Ngày 25 tháng 7 năm 1945, Tàu tuần tra số 2 trúng phải ngư lôi phóng từ tàu ngầm Anh HMS Stubborn và bị chìm gần eo biển Lombok thuộc quần đảo Sunda Nhỏ tại Đông Ấn thuộc Hà Lan, ở tọa độ 07°06′N 115°42′Đ / 7,1°N 115,7°Đ / -7.100; 115.700. Những người còn sống sót dưới nước bị giết hại bằng súng máy.[4]

Tàu tuần tra số 2 được rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 30 tháng 9 năm 1945.[3]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Howarth, The Fighting Ships of the Rising Sun
  2. ^ Globalsecurity.org, IJN Minekaze class destroyers
  3. ^ a b Nishidah, Hiroshi (2002). “Minekaze class 1st class destroyers”. Materials of the Imperial Japanese Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2010.
  4. ^ HMS Stubborn, Uboat.net

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

  • Brown, David (1990). Warship Losses of World War Two. Naval Institute Press. ISBN 1-55750-914-X.
  • Howarth, Stephen (1983). The Fighting Ships of the Rising Sun: The Drama of the Imperial Japanese Navy, 1895-1945. Atheneum. ISBN 0689114028.
  • Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. US Naval Institute Press. ISBN 087021893X.
  • Watts, Anthony J (1967). Japanese Warships of World War II. Doubleday. ASIN B000KEV3J8.
  • Whitley, M J (2000). Destroyers of World War Two: An International Encyclopedia. London: Arms and Armour Press. ISBN 1854095218.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Nadakaze_(t%C3%A0u_khu_tr%E1%BB%A5c_Nh%E1%BA%ADt)