Wiki - KEONHACAI COPA

USS Tambor (SS-198)

Tàu ngầm USS Tambor (SS-198) ngoài khơi Diamond Head, Hawaii, khoảng năm 1943
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Tambor (SS-198)
Đặt tên theo cá quân [1][2]
Xưởng đóng tàu Electric Boat Company, Groton, Connecticut [3]
Đặt lườn 16 tháng 1, 1939 [3]
Hạ thủy 20 tháng 12, 1939 [3]
Người đỡ đầu cô Lucia Ellis
Nhập biên chế 3 tháng 6, 1940 [3]
Xuất biên chế 10 tháng 12, 1945 [3]
Xóa đăng bạ 1 tháng 9, 1959 [3]
Danh hiệu và phong tặng 11 × Ngôi sao Chiến trận [1][2]
Số phận Bán để tháo dỡ, 5 tháng 12, 1959 [3]
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp Tambor
Kiểu tàu tàu ngầm Diesel-điện [4]
Trọng tải choán nước
  • 1.475 tấn Anh (1.499 t) (mặt nước)[5]
  • 2.370 tấn Anh (2.410 t) (lặn)[5]
Chiều dài 307 ft 2 in (93,62 m) [5]
Sườn ngang 27 ft 3 in (8,31 m) [5]
Mớn nước 14 ft 8 in (4,47 m) tối đa [5]
Động cơ đẩy
Tốc độ
  • 20,4 hải lý trên giờ (38 km/h) (mặt nước) [5]
  • 8,75 hải lý trên giờ (16,21 km/h) (lặn) [5]
Tầm xa 11.000 hải lý (20.000 km) trên mặt nước ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h)[5]
Tầm hoạt động
  • 48 giờ lặn ở tốc độ 2 hải lý trên giờ (3,7 km/h)[5]
  • tuần tra 75 ngày [7]
Độ sâu thử nghiệm
  • 250–300 ft (80–90 m)
  • độ sâu bị ép vỡ khoảng 500 ft (150 m)[5]
Thủy thủ đoàn tối đa 6 sĩ quan, 54 thủy thủ[5]
Vũ khí

USS Tambor (SS-198) là một tàu ngầm của Hải quân Hoa Kỳ, chiếc dẫn đầu của Lớp Tambor được chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến duy nhất của Hải quân Hoa Kỳ được đặt cái tên này, theo tên loài cá quân [1][2] Nó đã phục vụ trong suốt Thế Chiến II, thực hiện tổng cộng mười hai chuyến tuần tra và đánh chìm 11 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 33.479 tấn.[8] Con tàu được rút khỏi hoạt động nơi tuyến đầu vào đầu năm 1945 để làm nhiệm vụ huấn luyện cho đến khi chiến tranh kết thúc. Nó xuất biên chế năm 1945 và bị bán để tháo dỡ vào năm 1959. Tambor được tặng thưởng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.

Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Lớp Tambor có nhiều đặc tính được cải tiến so với tàu ngầm lớp Sargo dẫn trước. Hình dạng thân tàu được làm suôn thẳng hơn để đạt tốc độ nhanh hơn, và thùng lặn khẩn cấp được trang bị lại giúp con tàu lặn xuống nhanh hơn. Hệ thống động lực toàn diesel-điện được áp dụng, và giải quyết được sự cố chập mạch trước đây. Nó trang bị động cơ General Motors-Winton dẫn động máy phát điện, và động cơ điện kết nối với trục chân vịt qua hộp số giảm tốc.[9]

Lần đầu tiên đối với tàu ngầm Hoa Kỳ, lớp Tambor có đến mười ống phóng ngư lôi gồm sáu trước mũi và bốn phía đuôi. Hiệu quả tác chiến được cải thiện nhờ bố trí lại người vận hành sonarmáy tính dữ liệu ngư lôi vào một tháp chỉ huy lớn hơn, cho phép trao đổi trực tiếp với hạm trưởng, cùng một kính tiềm vọng kiểu mới có đầu nhỏ hơn giúp khó bị phát hiện.[10][11] Thoạt tiên được chỉ được trang bị pháo 3 in (76 mm)/50 caliber, boong tàu được gia cố sẵn đủ để lắp đặt pháo cỡ 5 in (130 mm)/51 caliber khi tình huống tác chiến đòi hỏi; nên vào khoảng đầu năm 1943, Tambor được nâng cấp lên cỡ pháo 5-inch khi đại tu.[12]

Tambor được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Electric Boat CompanyGroton, Connecticut vào ngày 16 tháng 1, 1939. Nó được hạ thủy vào ngày 20 tháng 12, 1939, được đỡ đầu bởi cô Lucia Ellis, và được cho nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 3 tháng 6, 1940 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Thiếu tá Hải quân John William Murphy Jr.[1][2][13]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

1940 - 1941[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi được trang bị tại Căn cứ Tàu ngầm hải quân New London, Tambor lên đường vào ngày 6 tháng 8, 1940 cho chuyến đi chạy thử máy đến thành phố New York, Washington, D.C., Morehead City, North CarolinaHouston, Texas. Nó tiếp tục huấn luyện ngoài khơi Colón, Panama trước khi quay trở về New London, Connecticut, và được đại tu sau chạy thử máy tại Xưởng hải quân PortsmouthKittery, Maine. Trong năm 1941, nó cùng các tàu ngầm chị em Trout (SS-202)Gar (SS-206) tham gia thử nghiệm hiệu quả của mìn sâu ngoài khơi Portsmouth, New Hampshire, khi phục vụ như là mục tiêu và lặn đến độ sâu kính tiềm vọng trong khi các liều thuốc nổ TNT nặng 300 lb (140 kg) được cho kích nổ ở những khoảng cách khác nhau. Dữ liệu thu được từ những thử nghiệm này được áp dụng để thiết kế chống rung động cho những tàu ngầm tiếp theo.[14] Sau đó, chiếc tàu ngầm được điều sang Lực lượng Tàu ngầm Hạm đội Thái Bình Dương vào tháng 5, 1941,[15] và bắt đầu một chuyến tuần tra trong thời bình vào cuối tháng 11, 1941.[1]

Tambor đang hoạt động tại khu vực đảo Wake khi Hải quân Đế Quốc Nhật Bản bất ngờ tấn công căn cứ Trân Châu Cảng vào ngày 7 tháng 12 khiến chiến tranh bùng nổ tại Mặt trận Thái Bình Dương. Tuy nhiên nó bị buộc phải quay trở về Trân Châu Cảng do bị hỏng một động cơ diesel, và tiếp tục đi đến Xưởng hải quân Mare IslandVallejo, California để sửa chữa các hư hỏng. Nó quay trở lại Trân Châu Cảng vào tháng 3, 1942.

1942[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ nhất[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi hành từ Trân Châu Cảng vào ngày 15 tháng 3, 1942 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong chiến tranh,[16] Tambor trinh sát các khu vực chung quanh đảo Wake, Truk, New Ireland, New BritainRabaul. Vào ngày 16 tháng 4, nó phóng hai quả ngư lôi tấn công tàu chở dầu Kitami Maru (361 tấn) tại vị trí 50 nmi (93 km) về phía Đông Nam Kavieng, New Ireland. Một quả ngư lôi trúng đích đã khiến Kitami Maru đắm tại tọa độ 03°00′N 152°00′Đ / 3°N 152°Đ / -3.000; 152.000; toàn bộ 26 thành viên thủy thủ đoàn đều thiệt mạng.[17][18] Chiếc tàu ngầm quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 12 tháng 5, nơi Thiếu tá Murphy hạm trưởng phê phán nặng nề về hiệu quả hoạt động của kiểu ngư lôi Mark 14.[17][1]

Chuyến tuần tra thứ hai[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi được tái trang bị, Tambor gia nhập Đội đặc nhiệm 7.1 bao gồm sáu tàu ngầm, và lên đường hướng sang đảo Midway vào ngày 21 tháng 5, để bắt đầu tuần tra một khu vực 150 mi (240 km) chung quanh vị trí dự báo hạm đội đối phương đang tiếp cận tấn công Midway. Lúc 07 giờ 15 phút ngày 4 tháng 6, 90 phút sau khi đối phương bị phát hiện, Tư lệnh Lực lượng Tàu ngầm Thái Bình Dương, Chuẩn đô đốc Robert H. English, ra lệnh cho các tàu ngầm trì hoãn đến 11 giờ 00 trước khi tiếp cận mục tiêu.[19] Di chuyển trên mặt nước, Tambor bị máy bay bắn phá.[20] Đến 02 giờ 15 ngày 5 tháng 6, tại vị trí 90 nmi (170 km) về phía Bắc Midway, nó phát hiện bốn hạm tàu lớn [21] ở khoảng cách 3 nmi (5,6 km).[17] Đối tượng ở khoảng cách xa khiến việc nhận dạng gặp khó khăn, trong khi chiếc tàu ngầm được cảnh báo về sự hiện hiện của tàu bạn tại khu vực. Thiếu tá Murphy hạm trưởng đổi hướng Tambor để tiếp tục theo dõi các đối tượng này.[22][1]

Đúng vào lúc này, Đô đốc Yamamoto Isoroku Tư lệnh Hạm đội Liên hợp, ra lệnh cho lực lượng bốn tàu tuần dương hạng nặng và hai tàu khu trục dưới quyền Phó đố đốc Takeo Kurita hủy bỏ kế hoạch bắn phá Midway và rút lui. Các tàu chiến Nhật đổi hướng về phía Tây Bắc, và Tambor lại nhìn thấy mục tiêu lúc 02 giờ 38 phút, lúc này ngay trước mũi chiếc tàu ngầm. Đến 02 giờ 58 phút, chiếc tàu ngầm lại đổi hướng, hy vọng nhìn rõ đối tượng dưới ánh trăng để xác định lai lịch.[23] Đến 04 giờ 00, họ nhìn rõ hơn hình dáng tàu nhưng vẫn không chắc chắn định danh của chúng. Đến 04 giờ 12 phút, Murphy ra lệnh dùng đèn tín hiệu để truy vấn mục tiêu, nhưng các đối tượng không trả lời. Chiếc tàu ngầm lặn khẩn cấp để đề phòng bị đối phương tấn công; khi nó trồi lên độ sâu kính tiềm vọng để quan sát, nó nhìn thấy tàu tuần dương Mogami bị hư hại nặng phần mũi tàu.[24][1]

Khi Tambor cắt ngang đội hình của Kurita, nó bị chiếc dẫn đầu Kumano phát hiện nên, hạm đội Nhật Bản cấp tốc đổi hướng 45 độ để né tránh ngư lôi có thể tấn công. Mikuma chuyển hướng chậm một chút nên bị Mogami đâm vào mạn trái ngay dưới cầu tàu, nhưng hư hại nhẹ hơn; một phần mũi khoảng 40 ft (12 m) của Mogami bị gảy gập. Đến sáng, căn cứ vào báo cáo của Tambor và dõi theo vệt dầu loang của Mikuma để lại, máy bay ném bom bổ nhào từ tàu sân bay phát hiện hai tàu tuần dương bị tụt lại, gây hư hại nặng cho Mogami và đánh chìm Mikuma.[25][1]

Đến ngày 7 tháng 6, phát hiện máy bay tiếp cận bằng radar, Tambor lặn xuống kịp thời trước khi một quả bom kích nổ gây hư hại cho cả hai kính tiềm vọng và bốn động cơ làm mát ắc-quy. Vụ ném bom có thể từ một máy bay ném bom B-17 Flying Fotress, vì một sự kiện tương tự đã xảy ra với tàu ngầm Grayling (SS-209) một ngày trước đó. Tambor kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về Trân Châu Cảng vào ngày 16 tháng 6.[26] Cùng một số chỉ huy tàu ngầm khác, Thiếu tá Murphy bị cách chức hạm trưởng Tambor vì đã không kiên quyết tiếp cận và tấn công mục tiêu, hay ít nhất chủ động nhận dạng và theo dõi để dẫn đường cho máy bay hải quân tấn công, nên đã để sổng mất Mogami, KumanoSuzuya. Murphy được chuyển lên vị trí trên bờ, và vai trò hạm trưởng Tambor được giao cho Thiếu tá Hải quân Steven H. Armbruster.[27][28][1]

Chuyến tuần tra thứ ba[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ ba từ ngày 24 tháng 7 đến ngày 19 tháng 9, Tambor xuất phát từ Trân Châu Cảng để hoạt động tại khu vực quần đảo Marshall. Vào ngày 7 tháng 8, gần Wotje, nó tấn công tàu rải lưới Shofuku Maru số 1 (891 tấn) bằng một quả ngư lôi khiến mục tiêu vỡ làm đôi và đắm tại tọa độ 9°22′B 170°12′Đ / 9,367°B 170,2°Đ / 9.367; 170.200.[29][30] Nó tiếp tục ở lại khu vực Marshall cho đến ngày 19 tháng 8, rồi chuyển sang tuần tra tại khu vực phụ cận Truk, và ngay sau đó đến vùng quần đảo Caroline. Gần Ponape, khoảng 94 nmi (174 km) về phía Tây Truk vào ngày 21 tháng 8, chiếc tàu ngầm phóng một loạt ba quả ngư lôi tấn công một tàu buôn và tàu hộ tống, cả ba trúng đích tàu chở hành khách-hàng hóa Shinsei Maru số 6 khiến mục tiêu đắm nhanh chóng tại tọa độ 07°02′B 158°03′Đ / 7,033°B 158,05°Đ / 7.033; 158.050, và khiến một thủy thủ thiệt mạng.[29][31] Đến ngày 1 tháng 9, nó phóng một loạt bốn quả ngư lôi, gây hư hại cho một tàu chở dầu gần Truk trước khi kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Fremantle, Australia.[32][1]

Chuyến tuần tra thứ tư[sửa | sửa mã nguồn]

Lên đường vào ngày 12 tháng 10 cho chuyến tuần tra thứ tư, Tambor tham gia rải thủy lôi ngoài khơi đảo Hải Nam, Trung Quốc; đến ngày 29 tháng 12, tàu buôn Fukken Maru (2.558 tấn) đã trúng thủy lôi và đắm ngoài khơi bờ biển Tây Bắc Hải Nam, tại tọa độ 20°04′B 109°18′Đ / 20,067°B 109,3°Đ / 20.067; 109.300.[13] Vào ngày 3 tháng 11, nó phóng ba quả ngư lôi nhắm vào một tàu buôn nhưng đều bị trượt, và sau khi lẫn tránh trong 30 phút đã phóng thêm hai quả ngư lôi nữa. Một quả trúng đích giữa tàu đã khiến tàu chở hàng Chikugo Maru (2.461 tấn) đắm tại tọa độ 20°18′B 108°39′Đ / 20,3°B 108,65°Đ / 20.300; 108.650.[29] Ba ngày sau đó, nó phóng hai quả ngư lôi vào một tàu tàu chở hành khách-hàng hóa treo cờ Pháp, nhưng không trúng đích. Đến ngày 10 tháng 11, nó đánh chìm một thuyền buồm bằng hải pháo và bắt giữ thủy thủ đoàn. Khi kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Fremantle vào ngày 21 tháng 11, chiếc tàu ngầm được nâng cấp khẩu hải pháo trên boong lên cỡ nòng 5 inch (130 mm).[33][1]

1943[sửa | sửa mã nguồn]

Chuyến tuần tra thứ năm[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ năm từ ngày 18 tháng 12, 1942 đến ngày 28 tháng 1, 1943, Tambor hoạt động trong eo biển Sunda giữa các đảo KrakatauThartway. Mục tiêu duy nhất mà nó phát hiện là một tàu khu trục vào ngày 1 tháng 1, nhưng loạt bốn quả ngư lôi phóng ra đã không trúng đích, và chiếc tàu ngầm phải lặn sâu để né tránh 18 quả mìn sâu được thả xuống sau đó.[1]

Chuyến tuần tra thứ sáu[sửa | sửa mã nguồn]

Tambor khởi hành từ Fremantle vào ngày 18 tháng 2 để làm nhiệm vụ đặc biệt hỗ trợ cho hoạt động của du kích Philippine. Vào ngày 5 tháng 3, ở phía Nam Mindanao, nó cho đổ bộ một nhóm nhỏ do Thiếu tá Hải quân Charles Parsons chỉ huy cùng với 50.000 viên đạn .30 (7,62 mm), 20.000 viên đạn .45 ACP (11,4 mm) và 10.000 đô la Mỹ. Đến ngày 22 tháng 3, chiếc tàu ngầm phóng một loạt ba quả ngư lôi tấn công một tàu chở dầu trong biển Sulu ngoài khơi đảo Apo,[34] khiến Bugen Maru (691 tấn) bị hư hại.[13] Bảy ngày sau đó, nó phóng một loạt ba quả ngư lôi tấn công một tàu buôn, trúng đích một quả và tin rằng đã đánh chìm mục tiêu; [34] tuy nhiên tài liệu thu được từ phía Nhật Bản sau chiến tranh không thể xác nhận chiến công này.[35] Nó kết thúc chuyến tuần tra và quay trở về căn cứ Fremantle vào ngày 14 tháng 4 để tái trang bị. Vào lúc này một khẩu pháo phòng không 20mm được bổ sung phía trước cầu tàu, và quyền chỉ huy con tàu được chuyển cho Thiếu tá Hải quân Russell Kefauver.[35][1]

Chuyến tuần tra thứ bảy[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chuyến tuần tra thứ bảy từ ngày 7 tháng 5 đến ngày 27 tháng 6, Tambor hoạt động tại biển Đông ngoài khơi Malaya. Vào ngày 26 tháng 5, nó phóng một loạt ba quả ngư lôi tấn công một tàu chở dầu nhưng bị trượt; rồi ba ngày sau đó loạt ba quả ngư lôi nhắm vào một tàu chở hàng cũng không trúng đích. Vài giờ sau đó nó tiếp tục tấn công, và hai trong số ba quả ngư lôi phóng ra đã đánh trúng tàu chở hàng Eisho Maru (2.486 tấn) khiến nó đắm ở vị trí khoảng 60 nmi (110 km) về phía Đông Nam đảo Hải Nam, tại tọa độ 17°35′B 110°45′Đ / 17,583°B 110,75°Đ / 17.583; 110.750.[29][13][36] Ngay sau đó chiếc tàu ngầm tiếp tục tấn công một tàu buôn khác cùng đi, rồi lần lượt vào các ngày 26 tháng 6 lại tiếp tục tấn công, chỉ được xác nhận đã đánh chìm Eika Maru (1.248 tấn) trong biển Đông tại tọa độ 20°29′B 107°57′Đ / 20,483°B 107,95°Đ / 20.483; 107.950 vào ngày 2 tháng 6.[13][37] Đến ngày 16 tháng 6, nó phóng ba quả ngư lôi còn lại vào một tàu chở dầu ngoài khơi vịnh Cam Ranh nhưng tất cả đều bị trượt.[35][1]

Chuyến tuần tra thứ tám[sửa | sửa mã nguồn]

Phần thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Tambor được tặng thưởng mười một Ngôi sao Chiến trận do thành tích phục vụ trong Thế Chiến II.[1][2] Nó được ghi công đã đánh chìm 11 tàu Nhật Bản với tổng tải trọng 33.479 tấn.[8]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Silver star
Silver star
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Dãi băng Hoạt động Tác chiến
Huân chương Chiến dịch Hoa KỳHuân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với 11 Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến II

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d e f g h i j k l m n o p Naval Historical Center. Tambor (SS-198). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  2. ^ a b c d e Yarnall, Paul R. “Tambor (SS-198)”. NavSource.org. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2024.
  3. ^ a b c d e f g Friedman 1995, tr. 285–304
  4. ^ a b c d e f Bauer 1991, tr. 270-280
  5. ^ a b c d e f g h i j k l m n Friedman 1995, tr. 305-311
  6. ^ Friedman 1995, tr. 261
  7. ^ a b Alden 1979, tr. 74
  8. ^ a b The Joint Army-Navy Assessment Committee. “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2022.
  9. ^ Friedman 1995, tr. 263, 360-361
  10. ^ Friedman 1995, tr. 196-197
  11. ^ “Tambor class, U.S. Submarine”. The Pacific War Online Encyclopedia. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2024.
  12. ^ Friedman 1995, tr. 214-218
  13. ^ a b c d e Helgason, Guðmundur. “Tambor (SS-198)”. uboat.net. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2024.
  14. ^ US Hydrographic Office. “Submarine Report: War Damage Report 58: Section XVIII - Shock Protection”. HyperWar Foundation. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2024.
  15. ^ Blair (2001), tr. 83.
  16. ^ Blair (2001), tr. 215.
  17. ^ a b c Blair (2001), tr. 216
  18. ^ Casse, Gilbert; van der Wal, Berend; Cundall, Peter (2018). “IJN KITAMI MARU: Tabular Record of Movement”. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  19. ^ Blair (2001), tr. 241.
  20. ^ Blair (2001), tr. 245.
  21. ^ Blair (2001), tr. 246.
  22. ^ Schultz (2009), tr. 72.
  23. ^ Schultz (2009), tr. 73.
  24. ^ Schultz (2009), tr. 73-74.
  25. ^ Schultz (2009), tr. 74-75.
  26. ^ Schultz (2009), tr. 79-81.
  27. ^ Blair (2001), tr. 250.
  28. ^ Schultz (2009), tr. 82.
  29. ^ a b c d The Joint Army-Navy Assessment Committee (tháng 2 năm 1947). “Japanese Naval and Merchant Shipping Losses During World War II by All Causes”. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  30. ^ Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard (6 tháng 1 năm 2022). “Seekrieg 1942, August”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  31. ^ Casse, Gilbert; Cundall, Peter (2018). “IJN SHINSEI MARU No. 6: Tabular Record of Movement”. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2024.
  32. ^ Blair (2001), tr. 917.
  33. ^ Blair (2001), tr. 922.
  34. ^ a b Blair (2001), tr. 697.
  35. ^ a b c Blair (2001), tr. 925.
  36. ^ Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard (3 tháng 2 năm 2023). “Seekrieg 1943, Mai”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.
  37. ^ Rohwer, Jürgen; Hümmelchen, Gerhard (5 tháng 10 năm 2018). “Seekrieg 1943, Juni”. Württembergische Landesbibliothek Stuttgart (bằng tiếng Đức). Truy cập ngày 28 tháng 3 năm 2024.

Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]


Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/USS_Tambor_(SS-198)