Wiki - KEONHACAI COPA

Thành viên:FCBM/Nháp

Atalanta
Tên đầy đủAtalanta Bergamasca Calcio S.p.A.
Biệt danhLa Dea (The Goddess)
Gli Orobici
I Nerazzurri (The Black and Blues)
Thành lập17 tháng 10 năm 1907; 116 năm trước (1907-10-17)
SânSân vận động Atleti Azzurri d'Italia
Sức chứa21.747[1]
Chủ tịch[2]Antonio Percassi
Huấn luyện viên trưởngGian Piero Gasperini
Giải đấuSerie A
2022–235 trên 20
Trang webTrang web của câu lạc bộ
Mùa giải hiện nay

Atalanta Bergamasca Calcio, thường được gọi là Atalanta, là một câu lạc bộ bóng đá Ý có trụ sở tại Bergamo, Lombardy. Đội hiện đang chơi ở Serie A, đã được thăng hạng từ Serie B vào năm 2010-11.

Họ có biệt danh là NerazzurriOrobici. Được thành lập vào năm 1907 bởi một số sinh viên Thụy Sĩ trong phòng tập của liceo classico [3][4][5], Atalanta thi đấu trong những chiếc áo sọc dọc màu xanh đen, quần soóc đen và vớ đen. Sân vận động câu lạc bộ là Sân vận động Atleti Azzurri d'Italia có sức chứa 21.747 chỗ ngồi.

Ở Ý, đôi khi Atalanta được gọi là Regina delle provinciali (nữ hoàng của các câu lạc bộ tỉnh) để đánh dấu sự thật rằng câu lạc bộ này là một trong số các câu lạc bộ Ý không có trụ sở tại khu vực, đã chơi 58 lần ở Serie A, 28 lần ở Serie B và chỉ một lần ở Serie C.

Câu lạc bộ đã giành được Coppa Italia vào năm 1963 và lọt vào bán kết Cup Winners' Cup năm 1988, khi đội vẫn thi đấu ở Serie B. Đây vẫn là màn trình diễn tốt nhất từ trước đến nay của một câu lạc bộ không phải là đang thi đấu ở giải cao nhất trong quốc nội trong một cuộc thi lớn của UEFA (cùng với Cardiff City). Atalanta cũng đã tham gia bốn mùa của UEFA Europa League (trước đây gọi là UEFA Cup), lọt vào tứ kết trong mùa giải 1990-91.

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Câu lạc bộ được thành lập vào năm 1907 bởi một số sinh viên Thụy Sĩ và huấn luyện viên PE của họ trong phòng tập thể dục của Liceo Classico Paolo Sarpi, Bergamo.[3][4][5][6] Một câu lạc bộ bóng đá đã tồn tại ở Bergamo từ năm 1903. Được thành lập bởi những người nhập cư Thụy Sĩ, nó được gọi là Câu lạc bộ bóng đá Bergamo. Câu lạc bộ Atalanta phát triển từ sự phân chia giữa các xã hội thể thao khác nhau trong thị trấn. Tên được lấy từ nữ vận động viên của thần thoại Hy Lạp. FIGC không ấn tượng với câu lạc bộ mới và không chính thức công nhận họ cho đến năm 1914. Câu lạc bộ hiện tại là kết quả của sự hợp nhất giữa Atalanta và một đội thứ ba được gọi là Bergamasca. Đội đầu tiên, màu đen và trắng và đội thứ hai mặc áo sơ mi trắng xanh, hợp nhất vào năm 1924 với tên Atalanta Bergamasca di Ginnastica e Scherma 1907.Đội bóng đã chuyển đến sân vận động hiện tại, Viale Giulio Cesare, vào năm 1928.

Atalanta tham gia giải đấu Ý năm 1929. Câu lạc bộ lần đầu tiên đến Serie A vào năm 1937, nhưng đã bị xuống hạng ngay lập tức. Câu lạc bộ trở lại vào năm 1940 và ở lại Serie A cho đến năm 1959; Sau một mùa giải duy nhất ở Serie B, câu lạc bộ đã được thăng hạng và kéo dài thêm một thập kỷ ở Serie A trước khi xuống hạng năm 1973 dẫn đến một giai đoạn thăng hạng và xuống hạng liên tục giữa hai cấp độ.

Câu lạc bộ đạt được vị trí cao nhất vào thời điểm năm 1948, kết thúc ở vị trí thứ năm, một kỳ tích chỉ tốt hơn trong năm 2017. Năm 1981, câu lạc bộ rơi xuống Serie C1, một cú đánh làm hồi sinh câu lạc bộ. Đội bóng đã trở lại Serie B mùa tiếp theo và trở lại Serie A năm 1984. Hình thức của câu lạc bộ ở Serie A vẫn không chắc chắn, vì đội đã xuống hạng vào năm 1987, 1994, 1998, 2003, 2005 và 2010. Sau khi thay đổi quyền sở hữu,[7] vào năm 2011, Atalanta ngay lập tức trở lại Serie A, nơi đội đã từng tồn tại.

Coppa Italia 1962 - 63

Về các danh hiệu, câu lạc bộ đã giành được rất ít, cúp bạc lớn duy nhất của họ là Coppa Italia năm 1963. Câu lạc bộ đã có một vài hoạt động tốt ở châu Âu, trong một số trường hợp bị loại bởi những đội vô địch cuối cùng.

Câu lạc bộ xứ Wales Merthyr Tydfil đã gây ra sự tiếc nuối trong trận tranh cúp vô địch cúp European 1987-88, đánh bại Atalanta 2-1 trong trận lượt đi vòng đầu tiên của họ tại Penydarren Park. Sau khi giành chiến thắng ở trận lượt về 2 - 0 tại Bergamo, Atalanta tiếp tục lọt vào bán kết, thua đội vô địch cuối cùng là Mechelen của Bỉ, nhưng trong quá trình trở thành một trong hai đội duy nhất trong lịch sử thi đấu để lọt vào vòng áp chót khi họ thi đấu bên ngoài các giải đấu hàng đầu quốc gia. Thật kỳ lạ, đội duy nhất khác làm như vậy là đồng hương của Merthyr Tydfil tại Cardiff City.

Atalanta lọt vào tứ kết UEFA Cup mùa 1990-91, thua đối thủ trong nước Internazionale, đội tiếp tục đánh bại một đội bóng khác của Ý, Roma, trong trận chung kết để giành chức vô địch. Câu lạc bộ không bao giờ tham gia các cuộc thi của câu lạc bộ châu Âu từ năm 1991 đến 2017, mặc dù đã từ chối cơ hội chơi ở UEFA Intertoto Cup năm 2001 sau khi kết thúc ở vị trí thứ bảy tại Serie A, thay vào đó, đối thủ của Brescia đã tham gia để gặp Paris Saint-Germain.

Trong những năm gần đây, câu lạc bộ đã xuống hạng tại các mùa 2002-03, 2004-05 và 2009-10, nhưng đã thăng hạng trở lại Serie A chỉ sau một mùa mỗi lần.

Trong năm 2011-12, Atalanta bị trừ sáu điểm trong bảng xếp hạng do kết quả của một vụ bê bối bóng đá Ý. Tuy nhiên, câu lạc bộ đã cố gắng đảm bảo một năm nữa ở Serie A bằng cách giành được 52 điểm sau 38 trận. Năm sau, vì những lý do tương tự, câu lạc bộ đã bị trừ hai điểm trong giải đấu nhưng thoát suất xuống hạng nhờ đạt vị trí thứ 15. Tại mùa giải 2013-14, Atalanta kết thúc ở vị trí thứ 11.

Atalanta đã vật lộn trụ hạng trong mùa giải 2014-15 mặc dù có một số kết quả ấn tượng. Vào đầu mùa giải, người quản lý Stefano Colantuono cam kết tương lai của mình với câu lạc bộ. Tuy nhiên, vào ngày 4 tháng 3 năm 2015, anh đã bị sa thải sau một phong độ kém cỏi khiến Atalanta chỉ còn ba điểm so với khu vực xuống hạng. Anh được thay thế bởi Edoardo Reja, người giúp bảo vệ vị trí của câu lạc bộ tại Serie A cho 2015-16, và Atalanta kết thúc thứ 13.

Vào năm 2016-17, Atalanta đã tuyên bố vào đầu mùa giải và huấn luyện viên mới Gian Piero Gasperini đang trên bờ vực bị sa thải, nhưng với một kết quả tích cực đáng kinh ngạc, đội đã kết thúc ở vị trí thứ 4 ấn tượng với 72 điểm, do đó kỷ niệm trở lại đấu trường châu Âu sau 26 năm, đủ điều kiện tham dự UEFA Europa League.

Trong mùa giải 2017-18 chỉ có được vị trí thứ 7, cho họ cơ hội đủ điều kiện tham dự UEFA Europa League. Tuy nhiên, họ đã bị đội Đan Mạch FC København đánh bại trong trận chung kết vòng loại.

Mùa giải 2018-19 là mùa giải lịch sử của câu lạc bộ, ngôi vị á quân Cúp QG Ý khi thảm bại trước Lazio với tỷ số 0-2. Tuy nhiên với vị trí thứ 3 ở giải quốc nội đã giúp cho Atalanta lần đầu tiên trong lịch sử tham dự UEFA Champions League

Lịch sử chủ tịch[sửa | sửa mã nguồn]

Atalanta đã có một số chủ tịch (tiếng Ý: presidenti hoặc tiếng Ý: presidenti del consiglio di amministrazione) trong suốt lịch sử của họ. Một số trong số họ đã là cổ đông chính của câu lạc bộ. Chủ tịch lâu nhất là Ivan Ruggeri, người đã được miễn nhiệm sau khi ông bị đột quỵ vào tháng 1 năm 2008, được thay thế bởi con trai Alessandro [8], người được bổ nhiệm làm chủ tịch Atalanta vào tháng 9 năm 2008. Cha của Alessandro đã không thể quản lý đội bóng do hậu quả của đột quỵ.[9] Vào tháng 6 năm 2010, sau khi xuống hạng tại Serie B, Alessandro Ruggeri đã bán cổ phần của mình cho Antonio Percassi, người trở thành chủ tịch mới của Atalanta.[7]

TênNăm
Enrico Luchsinger1920-1921
Antonio Gambirasi1926-1928
Pietro Capoferri1928-1930
Antonio Pesenti1930-1932
Emilio Santi1932-1935
Lamberto Sala1935-1938
Nardo Bertoncini1938-1944
Guerino Oprandi1944-1945
Daniele Turani1945-1964
Attilio Vicentini1964-1969
TênNăm
Giacomo "Mino" Baracchi1969-1970
Achille Bortolotti1970-1974
Enzo Sensi1974-1975
Achille Bortolotti1975-1980
Cesare Bortolotti1980-1990
Achille Bortolotti1990
Antonio Percassi1990-1994
Ivan Ruggeri1994-2008
Alessandro Ruggeri2008-2010
Antonio Percassi2010-

Cổ động viên[sửa | sửa mã nguồn]

Những cổ động viên Atalanta được coi là rất trung thành. Khi Atalanta chơi tại Atleti Azzurri d'Italia, những cổ động viên ở Curva Nord (Đường cong phía Bắc) khuyến khích đội bằng những tiếng hô trong suốt trận đấu.

Đối thủ cạnh tranh lớn nhất là những cổ động viên láng giềng của Brescia,[10] và có những cuộc cạnh tranh mạnh mẽ với những cổ động viên của Verona, Genova, Fiorentina, Roma,[11] Lazio, Napoli, Milan, Internazionale, Torino; trong khi đã có một tình bạn lâu dài với Ternana, cổ động viên của câu lạc bộ Bundesliga Đức Eintracht Frankfurt và cổ động viên của câu lạc bộ Áo Wacker Innsbruck.[12]

Trong những dịp đặc biệt, những cổ động viên Atalanta trưng bày một lá cờ màu đen và màu xanh rất lớn gọi là Bandierù bao phủ toàn bộ khán đài Curva Nord.

Danh hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Trong nước[sửa | sửa mã nguồn]

Vô địch (1): 1962-63
Á quân (2): 1986-87, 1995-96
Vô địch (6):[13] 1927-28, 1939-40, 1958-59, 1983-84, 2005-06, 2010-11
Á quân (4): 1936-37, 1970-71, 1976-77, 1999-2000
  • Serie C1
Vô địch (1): 1981
  • Campionato Nazionale Primavera (Giải trẻ)
Vô địch (2): 1992
Á quân (3): 2001-02, 2004-05, 2012-13
  • Coppa Italia Primavera (Giải trẻ)
Vô địch (3): 1999 1999
  • Torneo di Viareggio (Giải trẻ)
Vô địch (2): 1969, 1993
  • Campionato Nazionale Dante Berretti (Giải trẻ)
Vô địch (3): 2005–06, 2009–10, 2012–13

Cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến 10 tháng 7 năm 2023[14][15][16]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

SốVTQuốc giaCầu thủ
1TMArgentinaJuan Musso
2HVÝRafael Tolói (đội trưởng)
3HVĐan MạchJoakim Mæhle
5HVÝCaleb Okoli
6HVArgentinaJosé Luis Palomino
7TVHà LanTeun Koopmeiners
9ColombiaLuis Muriel
10TVBờ Biển NgàJérémie Boga
11NigeriaAdemola Lookman
13TVBrasilÉderson
15TVHà LanMarten de Roon (đội phó)
19HVAlbaniaBerat Djimsiti
22HVÝMatteo Ruggeri
23Cộng hòa SécLukáš Vorlický
28HVThổ Nhĩ KỳMerih Demiral
31TMÝFrancesco Rossi
33HVHà LanHans Hateboer
42HVÝGiorgio Scalvini
SốVTQuốc giaCầu thủ
77HVÝDavide Zappacosta
88TVCroatiaMario Pašalić
91ColombiaDuván Zapata
93HVPhápBrandon Soppy
HVPhápMichel Ndary Adopo
HVBosna và HercegovinaSead Kolašinac
HVHà LanMitchel Bakker
TMÝLorenzo Avogadri
TMÝMarco Carnesecchi
TMÝLudovico Gelmi
TMÝPierluigi Gollini
HVÝFederico Bergonzi
HVÝDavide Ghislandi
HVÝChristian Mora
HVÝLorenzo Peli
HVPhápGuillaume Renault
HVÝMarco Varnier
HVÝNadir Zortea
TVÝAlessandro Cortinovis
SốVTQuốc giaCầu thủ
TVÝJacopo Da Riva
TVÝSebastiano Finardi
TVÝSamuel Giovane
TVÝEmmanuel Gyabuaa
TVUkrainaViktor Kovalenko
TVÝAlessandro Mallamo
TVÝAndrea Oliveri
TVÝSimone Panada
ÝNicolò Cambiaghi
ÝChristian Capone
GuinéeMoustapha Cissé
GambiaEbrima Colley
ÝSalvatore Elia
Bờ Biển NgàEmmanuel Latte Lath
ÝSimone Mazzocchi
NgaAleksei Miranchuk
Bờ Biển NgàAlassane Sidibe
ÝLuca Vido

Cho mượn[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú: Quốc kỳ chỉ đội tuyển quốc gia được xác định rõ trong điều lệ tư cách FIFA. Các cầu thủ có thể giữ hơn một quốc tịch ngoài FIFA.

SốVTQuốc giaCầu thủ
HVÝGiorgio Cittadini (tại Monza đến 30 tháng 6 năm 2024)
ÝRoberto Piccoli (tại Empoli đến 30 tháng 6 năm 2024)

Số áo vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]

12 – Dành cho cổ động viên

14 – Ý Federico Pisani (tiền đạo, 1991–97)[17]
80 – Elio Corbani (nhà báo).[18]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “COMPLETATI I LAVORI ALLO STADIO DELL'ATALANTA, IMPIANTO SENZA BARRIERE GIOIELLO ARCHITETTONICO – (FOTO)”. ngày 31 tháng 8 năm 2015.
  2. ^ “The Club – ATALANTA Lega Serie A”. www.legaseriea.it. Lega Serie A. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 26 tháng 8 năm 2017.
  3. ^ a b “ATALANTA – Bergamo da scoprire” (bằng tiếng Ý). Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2019.
  4. ^ a b “Si chiamerà Atalanta!!”. Atalantini.com (bằng tiếng Ý). ngày 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2019.
  5. ^ a b “Buon compleanno Atalanta: compie 111 anni”. Bergamosera, news e notizie da Bergamo, Italia e esteri (bằng tiếng Ý). ngày 17 tháng 10 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 29 tháng 4 năm 2019.
  6. ^ “Storia”. www.atalanta.it. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 5 năm 2019.
  7. ^ a b “Atalanta, è tornato Percassi Nella notte la firma dell'accordo”. La Gazzetta dello Sport (bằng tiếng Ý). ngày 4 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2017.
  8. ^ News from Yahoo news[liên kết hỏng]
  9. ^ “Alessandro Ruggeri: "Vi racconto la mia Atalanta" – Sport Bergamo”. Eco.bg.it. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2017.
  10. ^ “Italy”. footballderbies.com.
  11. ^ “Roma V Atalanta a bit of history”. asroma.it.
  12. ^ Hall, Richard (ngày 7 tháng 1 năm 2014). “Atalanta: Serie A alternative club guide”. the Guardian.
  13. ^ (Italian record shared with Genoa C.F.C.)
  14. ^ “Rosa”. atalanta.it. Atalanta B.C. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2020.
  15. ^ “Squad - ATALANTA”. legaseriea.it. Lega Serie A. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2020.
  16. ^ “Amichevole al Centro Bortolotti, la partita integrale | Atalanta–Como 4–0”. YouTube.com. Atalanta B.C. 24 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 7 năm 2022.
  17. ^ “Federico Pisani, il talento dell'Atalanta scomparso a 22 anni in un incidente stradale”. Goal.com. 12 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2020.
  18. ^ “In onore di Elio Corbani l'Atalanta ritira la maglia 80” (bằng tiếng Ý). 14 tháng 3 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2016.
Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Th%C3%A0nh_vi%C3%AAn:FCBM/Nh%C3%A1p