I-166 (tàu ngầm Nhật)
Tàu chị em I-65, một chiếc phân lớp Kaidai V tiêu biển | |
Lịch sử | |
---|---|
Đế quốc Nhật Bản | |
Tên gọi | I-66 |
Xưởng đóng tàu | Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo, Sasebo |
Đặt lườn | 8 tháng 11, 1929 |
Hạ thủy | 2 tháng 6, 1931 |
Hoàn thành | 10 tháng 11, 1932 |
Nhập biên chế | 10 tháng 11, 1932 |
Xuất biên chế | 1 tháng 11, 1934 |
Tái biên chế | 1 tháng 12, 1936 |
Xuất biên chế | 1 tháng 12, 1937 |
Tái biên chế | 1 tháng 9, 1939 |
Đổi tên | I-166 on 20 tháng 5, 1942 |
Số phận | Bị tàu ngầm HMS Telemachus đánh chìm, 17 tháng 7, 1944 |
Xóa đăng bạ | 10 tháng 9, 1944 |
Đặc điểm khái quát | |
Lớp tàu | tàu ngầm lớp Kaidai (Kiểu V) |
Trọng tải choán nước | |
Chiều dài | 97,7 m (320 ft 6 in) |
Sườn ngang | 8,2 m (26 ft 11 in) |
Mớn nước | 4,7 m (15 ft 5 in) |
Công suất lắp đặt |
|
Động cơ đẩy |
|
Tốc độ |
|
Tầm xa |
|
Độ sâu thử nghiệm | 70 m (230 ft) |
Thủy thủ đoàn tối đa | 75 sĩ quan và thủy thủ |
Vũ khí |
|
I-66, sau đổi tên thành I-166, là một tàu ngầm tuần dương Lớp Kaidai thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong suốt Chiến tranh Thế giới thứ hai, hỗ trợ cho chiến dịch xâm chiếm Malaya và Đông Ấn thuộc Hà Lan, tham gia Trận Midway, cũng như thực hiện nhiều chuyến tuần tra trong Ấn Độ Dương trước khi bị tàu ngầm Anh HMS Telemachus đánh chìm vào ngày 17 tháng 7, 1944.
Thiết kế và chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]
Phân lớp tàu ngầm Kaidai V là phiên bản được cải tiến từ phân lớp Kaidai IV dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước 1.732 tấn (1.705 tấn Anh) khi nổi và 2.367 tấn (2.330 tấn Anh) khi lặn, lườn tàu có chiều dài 97,7 m (320 ft 6 in), mạn tàu rộng 8,2 m (26 ft 11 in) và mớn nước sâu 4,70 m (15 ft 5 in). Con tàu có thể lặn sâu 75 m (246 ft) và có một thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 75 sĩ quan và thủy thủ.[1]
Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel 3.400 mã lực phanh (2.535 kW), mỗi chiếc vận hành một trục chân vịt. Khi lặn, mỗi trục được vận hành bởi một động cơ điện 900 mã lực (671 kW). Con tàu có thể đạt tốc độ tối đa 20 hải lý trên giờ (37 km/h; 23 mph) khi nổi và 8,25 hải lý trên giờ (15,28 km/h; 9,49 mph)khi lặn. Khi Kaidai V di chuyển trên mặt nước nó đạt tầm xa hoạt động 10.800 hải lý (20.000 km; 12.400 mi) ở tốc độ 10 hải lý trên giờ (19 km/h; 12 mph), và có thể lặn xa 60 nmi (110 km; 69 mi) ở tốc độ 3 hải lý trên giờ (5,6 km/h; 3,5 mph).[2]
Lớp Kaidai V có sáu ống phóng ngư lôi 53,3 cm (21,0 in), gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang tổng cộng 14 ngư lôi. Hải pháo trên boong tàu được nâng cấp lên kiểu 10 cm (3,9 in)/50 caliber lưỡng dụng,[2] và bổ sung một súng máy 13,2 mm (0,52 in) phòng không.[1]
Chế tạo[sửa | sửa mã nguồn]
I-66 được đặt lườn tại Xưởng vũ khí Hải quân Sasebo ở Sasebo vào ngày 8 tháng 11, 1929.[3] Nó được hạ thủy vào ngày 2 tháng 6, 1931,[3] rồi hoàn tất và nhập biên chế vào ngày 10 tháng 11, 1932.[3]
Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]
1932 - 1940[sửa | sửa mã nguồn]
Vào ngày nhập biên chế, I-66 cùng tàu ngầm chị em I-67 tham gia Đội tàu ngầm 30 tại Quân khu Hải quân Sasebo.[3] Vào ngày 27 tháng 9, 1934, I-66 rời Ryojun, Mãn Châu để cùng các tàu ngầm I-56, I-57, I-58, I-61, I-62, I-64, I-65 và I-67 thực hiện chuyến đi huấn luyện ngoài khơi Thanh Đảo, Trung Quốc.[4][5][6][7][8][9][10][11][12] Sau khi hoàn tất, cả chín chiếc tàu ngầm đều quay về Sasebo, Nhật Bản vào ngày 5 tháng 10, 1934.[4][5][6][7][8][9][10][11][12] Nó được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 11, 1934 và đưa về thành phần dự bị,[3] rồi tái biên chế trở lại vào khoảng đầu năm 1936.
Vào ngày 13 tháng 4, 1936, I-66 cùng các tàu chị em I-65 và I-67 khởi hành từ Fukuoka cho một chuyến đi huấn luyện tại khu vực Thanh Đảo, Trung Quốc.[12] Họ hoàn tất chuyến đi và quay trở về Sasebo vào ngày 22 tháng 4, 1936.[4][11][12] Ba chiếc tàu ngầm lại xuất phát từ Makō (nay là Mã Công) thuộc quần đảo Bành Hồ vào ngày 4 tháng 8, 1936 cho một chuyến đi huấn luyện ngoài khơi Hạ Môn;[4][11][12] họ quay trở về vào ngày 6 tháng 9, 1936.[4][11][12] Sau khi hoạt động được khoảng hai năm, nó lại được cho xuất biên chế vào ngày 1 tháng 12, 1937 và quay trở lại thành phần dự bị.[3] I-66 nhập biên chế trở lại vào ngày 1 tháng 9, 1939.[3]
Vào ngày 11 tháng 10, 1940, I-66 cùng với 97 tàu chiến khác và 527 máy bay hải quân Nhật Bản tập trung tại vịnh Yokohama để tham gia cuộc duyệt binh hạm đội lớn nhất trong lịch sử Nhật Bản, nhân kỷ niệm 2.600 năm đăng quang của Thiên hoàng Jimmu.[3][13][14] Hơn một năm sau đó, trong một đợt thực hành cơ động, nó mắc tai nạn va chạm với tàu ngầm I-7 trong vịnh Saeki vào sáng sớm ngày 21 tháng 10, 1941,[3] cả hai chỉ bị hư hại nhẹ.[3]
1941 - 1944[sửa | sửa mã nguồn]
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b Carpenter & Polmar 1986, tr. 93
- ^ a b Bagnasco 1977, tr. 183
- ^ a b c d e f g h i j Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-166: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.
- ^ a b c d e “I-166 ex I-66”. iijnsubsite.info. 11 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b “I-156”. ijnsubsite.com. 15 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2022.
- ^ a b “I-157”. iijnsubsite.info. 16 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b “I-158”. iijnsubsite.info. 20 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b “I-61”. iijnsubsite.info. 24 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b “I-162 ex I-62”. iijnsubsite.info. 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b “I-164 ex I-64”. iijnsubsite.info. 9 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b c d e “I-165 ex I-65”. iijnsubsite.info. 11 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ a b c d e f “I-67”. iijnsubsite.info. 14 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 12 năm 2021.
- ^ Tully, Athony (19 tháng 5 năm 2014). “IJN Seaplane Carrier CHITOSE: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2021.
- ^ “2012 Fleet Review” (PDF). Japan Defense Focus. tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2019.
Thư mục[sửa | sửa mã nguồn]
- Bagnasco, Erminio (1977). Submarines of World War Two. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-962-6.
- Boyd, Carl (2012). The Japanese Submarine Force in World War II. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 978-1557500151.
- Carpenter, Dorr B. & Polmar, Norman (1986). Submarines of the Imperial Japanese Navy 1904–1945. London: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-396-6.
- Chesneau, Roger biên tập (1980). Conway's All the World's Fighting Ships 1922–1946. Greenwich, UK: Conway Maritime Press. ISBN 0-85177-146-7.
- Jentsura, Hansgeorg (1976). Warships of the Imperial Japanese Navy, 1869-1945. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 0-87021-893-X.
- Rohwer, Jürgen (2005). Chronology of the War at Sea 1939–1945: The Naval History of World War Two . Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN 1-59114-119-2.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Hackett, Bob; Kingsepp, Sander (2016). “IJN Submarine I-166: Tabular Record of Movement”. combinedfleet.com. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2024.