Wiki - KEONHACAI COPA

Vũ Phạm Từ

Nghệ sĩ ưu tú
Vũ Phạm Từ
Thông tin cá nhân
Sinh
Ngày sinh
(1926-05-30)30 tháng 5, 1926
Nơi sinh
Thanh Oai, Hà Tây
Mất2006 (79–80 tuổi)
Giới tínhnam
Quốc tịch Việt Nam
Nghề nghiệpĐạo diễn điện ảnh
Gia đình
Bố
Vũ Phạm Phổ
Khen thưởngHuân chương Kháng chiến Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
Huân chương Độc lập Huân chương Độc lập
Danh hiệuNghệ sĩ ưu tú (1997)
Sự nghiệp điện ảnh
Vai tròĐạo diễn, biên kịch
Năm hoạt động1951 – 1998
Đào tạoTrường Điện ảnh Việt Nam
Website

Vũ Phạm Từ (30 tháng 5 năm 1926 – 2006) là một đạo diễn điện ảnh Việt Nam. Ông được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú và là 1 trong 3 nghệ sĩ điện ảnh đầu tiên nhận được Huân chương Độc lập bên cạnh hai Nghệ sĩ Nhân dân Nguyễn Hồng NghiĐặng Nhật Minh.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Vũ Phạm Từ sinh ngày 30 tháng 5 năm 1926 tại huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Ông là cháu nội của nhà thơ Vũ Phạm Hàm, một trong ba tam nguyên dưới triều nhà Nguyễn cũng là tam khôi cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Cha ông là Vũ Phạm Phổ, con trai thứ ba của Vũ Phạm Hàm. Vũ Phạm Phổ từng là Tri phủ tại Lục Ngạn dưới triều Nguyễn. Ngày 17 tháng 7 năm 1945, quân Việt Minh tiến vào Lục Ngạn, Vũ Phạm Phổ nộp dấu ấn, sổ sách cho Việt Minh và đầu hàng.[1][2] Sau Cách mạng Tháng Tám, Vũ Phạm Phổ đảm nhiệm Hội trưởng Hội Liên Việt huyện Lục Ngạn.[3] Đến năm 1948, ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen ngợi[4] và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.[5]

Vũ Phạm Phổ có 9 người con, trong đó ngoài Vũ Phạm Từ còn có Đại tá Vũ Phạm Thuyên là con trai trưởng, nhà báo Vũ Phạm Chánh,[6] và nhà quay phim Vũ Phạm Chuân là con trai út.[7]

Cuộc đời[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1945, Vũ Phạm Từ tham gia Thanh niên cứu quốc tại huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang. Về sau, ông chủ yếu hoạt động ở mảng thông tin, từng là trưởng ty Thông tin của tỉnh Hải Ninh và giảng viên trường đại học tỉnh. Tháng 12 năm 1951, ông được Ban Tuyên huấn điều sang công tác điện ảnh. Năm 1952, phòng Điện ảnh – Nhiếp ảnh chuyển từ Tuyên Quang về Đồi Cọ. Cơ quan điện ảnh tại Đồi Cọ của chiến khu Việt Bắc lúc bấy giờ chính là nơi khai sinh của điện ảnh cách mạng Việt Nam.[8][9][10] Vũ Phạm Từ là một trong những đạo diễn tham gia xây dựng ngành điện ảnh Việt Nam từ những ngày đầu thành lập ngành.[11] Ngày 15 tháng 3 năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 147/SL quyết định đặt phòng Điện – Nhiếp ảnh thuộc Nha Tuyên truyền và Văn nghệ thành một doanh nghiệp Quốc gia lấy tên Doanh nghiệp quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam, chính thức khai sinh ngành Điện ảnh Việt Nam.[12] Vũ Phạm Từ là 1 trong 9 người tiếp nhận sắc lệnh này. Trong Ban phụ trách đầu tiên gồm 9 người, Vũ Phạm Từ là người phụ trách Ban Biên tập chính trị.[13]

Năm 1956, Doanh nghiệp quốc gia chiếu bóng và chụp ảnh Việt Nam được tách làm 2 bộ phận là Xưởng phim Việt Nam và Quốc doanh phát hành phim và chiếu bóng Việt Nam (nay là FAFIM Việt Nam).[14] Vũ Phạm Từ đảm nhiệm vai trò trưởng phòng Biên tập và sáng tác của xưởng phim cho đến năm 1959. Trong khoảng thời gian này, ông đã thực hiện nhiều bộ phim tài liệu như Hợp tác xã Thành Công, Chống cưỡng ép di cư, Khôi phục đường sắt Hà Nội – Mục Nam Quan, Mùa xuân ở Việt Bắc. Ông không chỉ chịu trách nhiệm đạo diễn mà còn làm nhiều công việc khác như dựng phim, thuyết minh. Năm 1959 là năm ngành điện ảnh Việt Nam bắt đầu có những bước ngoặt phát triển mạnh mẽ với sự ra đời của Trường Điện ảnh Việt Nam, Nhà máy cơ khí điện ảnh,[15] và Xưởng phim Việt Nam được tách thành Xưởng Phim truyện Việt Nam, Xưởng phim Hoạt họa và búp bê, Xưởng phim Thời sự, tài liệu Trung ương.[16] Vũ Phạm Từ bắt đầu theo học khóa đầu tiên của lớp đạo diễn điện ảnh kéo dài 3 năm của Trường Điện ảnh dưới sự đào tạo của một số đạo diễn đến từ Khối phía Đông như Ajdai Ibraghimov (ru), một đạo diễn người Azerbaijan.[17] Cùng khóa với ông còn có các Nghệ sĩ nhân dân như Trần Vũ, Bạch Diệp, Hải Ninh, Huy Thành.[18][19] Sau khi hoàn thành khóa đạo diễn điện ảnh, ông về công tác tại Xưởng Phim truyện và bắt đầu chuyển sang mảng phim truyện. Ông được xem là một trong những đạo diễn phim truyện đầu tiên của Việt Nam.[20]

Năm 1964, bộ phim Kim Đồng của ông được ra mắt khán giả. Bộ phim được do Vũ Phạm Từ và Nông Ích Đạt hợp tác xây dựng dựa trên tác phẩm cũng như kịch bản của nhà văn Tô Hoài.[21] Đây là bộ phim truyện đầu tay của cả đạo diễn sau khi tốt nghiệp lớp đạo diễn khóa 1 từ Trường Điện ảnh Việt Nam. Ngoài hai ông, đoàn làm phim còn có sự tham gia của hai quay phim là Hồng Sến và Quang Tuấn, họa sĩ Ngọc Linh, nhạc sĩ Đỗ Minh và các diễn viên như Thanh Phương, Hoàng Yến, Long Vân, Sĩ Cừ.[22] Mặc dù vẫn còn nhiều thiếu sót, nhưng Kim Đồng vẫn được đánh giá là một bộ phim hay của điện ảnh Việt Nam vào thời điểm bấy giờ. Tại Liên hoan phim Á Phi được tổ chức tại Jakarta cùng năm đó, bộ phim đã giành được giải Bandung cho phim thiếu nhi hay nhất và giải Lumunba cho quay phim, dựng phim và diễn xuất vai chính. Đến năm 1973, bộ phim tiếp tục giành được Bông sen bạc cho phim truyện nhân dịp kỷ niệm 20 năm ngày Cách mạng Việt Nam tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2.[23]

Năm 1971, ông thực hiện bộ phim Người cộng sản trẻ tuổi về nhà cách mạng Lý Tự Trọng.[24] Để có thể hồi tưởng lại chân thực cuộc đời và các sự kiện lịch sử diễn ra trong những năm 1929–1930, ông cùng đoàn làm phim đã bỏ 2 năm nghiên cứu báo chí cũ, tư liệu và hình ảnh có tại Bảo tàng Cách mạng cũng như các thư viện lớn. Ngay cả các diễn viên cũng đã nói chuyện và lắng nghe lời kể của những cán bộ cách mạng đã tham gia phong trào Nam kỳ 1930.[25] Mặc dù đây là phim lịch sử cách mạng, một loại đề tài khác với đề tài chiến đấu phổ biến trong giai đoạn chiến tranh, nhưng bộ phim vẫn mắc một khuyết điểm là nặng về thể hiện sự kiện hơn là nội tâm nhân vật,[26] dù vậy bộ phim cũng đã giành được Bông sen bạc tại Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2. Ba năm sau Vũ Phạm Từ cho ra mắt bộ phim sân khấu Người con gái đất đỏ về chị Võ Thị Sáu.[27]

Bên cạnh nghề chính là đạo diễn, Vũ Phạm Từ còn thường vào vai các ông đồ hay quan huyện trong nhiều bộ phim. Năm 1997, ông được nhà nước phong tặng danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú.[28] Năm 2017, ông được truy tặng Huân chương Độc lập, trở thành 1 trong 3 nghệ sĩ điện ảnh đầu tiên được nhận huân chương này.[29]

Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Đạo diễn[sửa | sửa mã nguồn]

Phim tài liệu[sửa | sửa mã nguồn]

NămPhimVai tròQuay phimGhi chúNguồn
Đạo diễnBiên kịchLời bình
1953Giữ làng giữ nướcKhôngTrần Quốc Ấn, Quang HuyĐạo diễn: NSND Mai Lộc[30][31]
1957Chống hạnKhôngNguyễn Đắc, An Như SơnĐạo diễn: Nguyễn Đắc[32]
Mùa xuân ở Việt BắcKhông[29][33]
1958Đại hội Anh hùng, Chiến sĩ thi đua lần 2Không[34]
1959Chống cưỡng ép di dânKhông[35]
Khôi phục đập Bái ThượngKhông[36]
Khôi phục đường sắt Hà Nội – Mục Nam QuanKhông
1960Nhà máy dệt Nam ĐịnhKhông[37]
1961Hợp tác xã Thành Công – lá cờ đầu ngành tiểu thủ côngKhôngKhông[38][38]
1965Hải Phòng sáng mãiKhôngKhông[39][40]
1974Tấm lòng hậu phươngKhôngKhôngPhạm Ngọc Lan[41]
1985Vùng mỏ con người và lịch sửKhôngKhôngNSND Nguyễn Đăng BảyBiên kịch: Đặng Huỳnh Thái[42]
1990Nguồn sángKhôngKhôngBiên kịch: Bành Bảo[43]
1991Một chặng đường đổi mớiKhôngKhông[44]
Đại hội Đảng - những mốc lịch sửKhôngKhông[45]

Phim truyện[sửa | sửa mã nguồn]

NămPhimVai trò(Đồng) Biên kịchĐồng đạo diễnChúNguồn
Đạo diễnBiên Kịch
1964Kim ĐồngKhôngTô HoàiNông Ích Đạt[a][46][47]
1967Cô giáo HạnhPhạm Kỳ Nam[48][49]
1971Người cộng sản trẻ tuổiĐào Công Vũ[b][51][52]
1974Người con gái đất đỏKhôngNgọc Truyền[c][27][54]
1977Bản danh sách mậtKhôngHồng Lực, Kim Sơn[d][55][56]
1979Con chim biết chọn hạt[57][58]
1980Chuyện đời không đơn giảnKhôngNghiêm Đa Văn[e][59][60]
1983Khoảnh khắc yên lặng của chiến tranhNguyễn Anh DũngTrần Phi[61][62][63]
1996Sáng mãi tên anhKhôngNguyệt Anh[f][64]
1998Sau luỹ tre làngKhôngĐoàn Trúc Quỳnh[f][g][65]

Diễn viên[sửa | sửa mã nguồn]

NămPhimVai diễnĐạo diễnNguồn
1964Kim ĐồngTây ĐồnVũ Phạm Từ[47]
1976Sao tháng TámThừa TháiNghệ sĩ nhân dân Trần Đắc[66]
1980Chị DậuLục SựNghệ sĩ nhân dân Phạm Văn Khoa[67]
1987Thủ lĩnh áo nấuLê HoanNghệ sĩ nhân dân Trần Phương[68]
1990Lan và ĐiệpCụ TúNghệ sĩ nhân dân Trần Vũ, Nguyễn Hữu Luyện

Thành tựu[sửa | sửa mã nguồn]

Huân chương[sửa | sửa mã nguồn]

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

NămLễ trao giảiHạng mụcTác phẩmKết quảNguồn
1957Tuần lễ phim châu Á (Bắc Kinh)Mùa xuân ở Việt BắcBằng khen[29]
1964Liên hoan phim Á Phi (en)Phim thiếu nhi hay nhấtKim ĐồngGiải Bandung[23]
Quay phim, dựng phim, diễn xuất vai chínhGiải Lumunba
1970Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 1Phim truyện điện ảnhCô giáo HạnhBông sen bạc[69]
1973Liên hoan phim Việt Nam lần thứ 2Kim ĐồngBông sen bạc[23]
Người cộng sản trẻ tuổiBằng khen[70]
Phim tài liệuGiữ làng giữ nướcBông sen vàng[71]
Chống hạnBông sen vàng[72]

Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Phim thiếu nhi dựa trên tác phẩm của Tô Hoài.
  2. ^ Còn có tên Tuổi trẻ Lý Tự Trọng.[50]
  3. ^ Phim cải lương.[53]
  4. ^ Phỏng theo vở kịch "Bản danh sách điệp viên" của Văn Báu.
  5. ^ Dựa theo tiểu thuyết "Độ nóng mặt trời".
  6. ^ a b Phim video.
  7. ^ Dựa theo tiểu thuyết Đất mẹ của Tạ Bảo.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Hạ Bá Nền (2002), tr. 60.
  2. ^ Nguyễn Quang Ân (2002), tr. 407.
  3. ^ Trần Đương (2005), tr. 309.
  4. ^ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2006), tr. 494.
  5. ^ Ban chấp hành Đảng bộ huyện Lục Ngạn (2005), tr. 29.
  6. ^ Lã Duy Lan (2001), tr. 119.
  7. ^ “28 tuổi và 28 năm”. Báo Công an Nhân dân điện tử. 30 tháng 4 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2022.
  8. ^ Việt Hùng (16 tháng 3 năm 2023). “Trở về đồi Cọ - Nơi khai sinh ra ngành Điện ảnh và Nhiếp ảnh cách mạng Việt Nam”. Báo điện tử Tổ quốc. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
  9. ^ Đồng Khắc Thọ (17 tháng 3 năm 2013). “Nơi phát tích Điện ảnh và Nhiếp ảnh Cách mạng”. Báo điện tử Tiền Phong. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
  10. ^ “Ngành Điện ảnh và Nhiếp ảnh Việt Nam về nguồn”. Báo Nhân Dân điện tử. 15 tháng 3 năm 2023. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2023.
  11. ^ Lý Phương Dung (12 tháng 3 năm 2013). “Những người "chép sử" bằng điện ảnh”. Báo Nhân Dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.
  12. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 61.
  13. ^ Trần Mạnh Thường (2005), tr. 869.
  14. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 67.
  15. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 68.
  16. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 72.
  17. ^ Charlot (1991), tr. 41.
  18. ^ Hải An (26 tháng 5 năm 2018). “Nhớ người 'nổi gió'. Báo Thanh Niên. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2022.
  19. ^ Đặng Nhật Minh (2005), tr. 47.
  20. ^ Đoàn Tuấn (4 tháng 11 năm 2020). “Đạo diễn Nông Ích Đạt: Ngọn núi mờ sương”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2023.
  21. ^ Đinh Tiếp (12 tháng 7 năm 2006). “Những đứa trẻ từ ngoài đời bước vào phim và từ phim bước ra cuộc đời”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2023.
  22. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 216.
  23. ^ a b c Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 218.
  24. ^ B.T. (27 tháng 3 năm 2012). “Tôi đóng vai người Cộng sản Lý Tự Trọng”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.
  25. ^ Nguyen Dai (1971), tr. 89.
  26. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 274–275.
  27. ^ a b Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 430.
  28. ^ Đỗ Văn Trụ & Phạm Vũ Dũng (2003), tr. 234.
  29. ^ a b c Kim Anh (8 tháng 6 năm 2017). “Ba nghệ sĩ điện ảnh đầu tiên được trao tặng Huân chương Độc lập”. Tạp chí Thế giới điện ảnh. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 5 năm 2023.
  30. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 427.
  31. ^ Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam (1998), tr. 241.
  32. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 275.
  33. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 574.
  34. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 342.
  35. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 274–275.
  36. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 489.
  37. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 631.
  38. ^ a b Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 474.
  39. ^ Trần Hoàn (2000), tr. 182.
  40. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 440.
  41. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 758.
  42. ^ Phạm Học (24 tháng 4 năm 2022). “Bộ phim "Vùng mỏ, con người và lịch sử". Báo Quảng Ninh. Truy cập ngày 4 tháng 6 năm 2023.
  43. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 608.
  44. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 556.
  45. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010d), tr. 344.
  46. ^ Lê Cẩm Thúy (18 tháng 11 năm 2018). “Mảnh đất màu mỡ cần bàn tay "vàng" khai thác”. Báo Biên phòng. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
  47. ^ a b Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 826.
  48. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 244.
  49. ^ Đoàn Tuấn (14 tháng 3 năm 2022). “Những giá trị anh hùng của người phụ nữ được khắc họa mạnh mẽ trong thời kỳ điện ảnh cách mạng”. Tạp chí Thế giới điện ảnh. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2022. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.
  50. ^ Khánh Bằng (11 tháng 3 năm 2012). “Một nghệ sĩ biểu diễn và viết kịch nhiều sáng tạo”. Báo Nhân Dân điện tử. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.
  51. ^ Đinh Tiếp (22 tháng 7 năm 2005). “Hình ảnh thương binh, liệt sĩ trong phim truyện Việt Nam”. Báo Nhân Dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 8 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
  52. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 251.
  53. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 866.
  54. ^ Minh Hoa (2 tháng 4 năm 2007). “Kim Xuân và hai vẻ đẹp Vân - Kiều”. Báo Thanh niên. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.
  55. ^ Viện nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh (1994), tr. 287.
  56. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 727.
  57. ^ Nguyễn Thụ (1984), tr. 83.
  58. ^ Nguyễn Mạnh Lân, Trần Duy Hinh & Trần Trung Nhàn (2002), tr. 262.
  59. ^ Nguyễn Thụ (1984), tr. 82.
  60. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 760.
  61. ^ Ngô Mạnh Lân và đồng nghiệp (2005), tr. 207.
  62. ^ Mai Thanh Hải (11 tháng 2 năm 2021). “Yêu cuộc sống”. Báo Thanh niên. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2023. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2023.
  63. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 822.
  64. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010b), tr. 779.
  65. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010b), tr. 779–780.
  66. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 895.
  67. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 749–750.
  68. ^ Trần Trọng Đăng Đàn (2010a), tr. 908.
  69. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 61.
  70. ^ Nhiều tác giả (2007), tr. 799.
  71. ^ Phan Phú Yên (31 tháng 8 năm 2019). "Vợ chồng A Phủ" và duyên nợ Tô Hoài – Mai Lộc”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2024.
  72. ^ Hoàng Thanh và đồng nghiệp (2003), tr. 76.
  73. ^ L.V (20 tháng 3 năm 2011). “Người thầy mẫu mực, người cha gương mẫu”. Báo Công an Nhân dân điện tử. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
  74. ^ Đức Bình (14 tháng 12 năm 2017). “Khắc khoải từ một chiến công”. Tuổi Trẻ Online. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
  75. ^ Tô Hà; Ánh Nguyệt (8 tháng 1 năm 2011). “Đường cao tốc sẽ ế”. Người Lao Động. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.[liên kết hỏng]
  76. ^ Xuân Ba (22 tháng 5 năm 2022). “Chuyện phía sau 'Trước mặt là con đường'. Báo điện tử Tiền Phong. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
  77. ^ Hồ An (16 tháng 2 năm 2022). "Trước mặt là con đường" hé lộ "thâm cung bí sử" trong ngành Giao thông”. Báo Giao thông. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 22 tháng 11 năm 2022.
  78. ^ Nhiều tác giả (2002), tr. 15.

Nguồn[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C5%A9_Ph%E1%BA%A1m_T%E1%BB%AB