Wiki - KEONHACAI COPA

USS Samuel B. Roberts (DE-413)

Samuel B. Roberts trong màu sơn ngụy trang Measure 32/22D, Vịnh Leyte, Philippines, tháng 10 năm 1944
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Samuel B. Roberts
Đặt tên theo Samuel Booker Roberts, Jr.
Xưởng đóng tàu Công ty Đóng tàu Brown, Houston, Texas
Đặt lườn 6 tháng 12 năm 1943
Hạ thủy 20 tháng 1 năm 1944
Người đỡ đầu Bà Anna Roberts
Nhập biên chế 28 tháng 4 năm 1944
Xóa đăng bạ 27 tháng 11 năm 1944
Số tàu
  • DE-413
  • Mã liên lạc: NTIK
Biệt danh "Sammy B"
Danh hiệu và phong tặng
Số phận Bị bắn chìm trong Trận Samar, 25 tháng 10 năm 1944
Đặc điểm khái quát
Lớp tàu Lớp tàu hộ tống khu trục John C. Butler
Trọng tải choán nước 1.350 tấn Anh (1.370 t)
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 36 ft 8 in (11,18 m)
Mớn nước 9 ft 5 in (2,87 m)
Công suất lắp đặt 12.000 shp (8.900 kW)
Động cơ đẩy
  • 2 × nồi hơi ống nước "D" Express
  • 2 × turbine hơi nước Westinghouse
  • 2 × trục
  • 2 × chân vịt ba cánh
Tốc độ
  • Tiêu chuẩn: 24 kn (28 mph; 44 km/h)
  • Tối đa: 28,7 kn (33,0 mph; 53,2 km/h)
Tầm xa 6.000 nmi (11.000 km; 6.900 mi) ở vận tốc 12 kn (22 km/h; 14 mph)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 14 sĩ quan, 201 thủy thủ (ban đầu)
  • 11 sĩ quan, 199 thủy thủ (Vịnh Leyte)
Hệ thống cảm biến và xử lý
  • Hệ thống Sonar QC
  • Radar dò tìm mặt biển SL
  • Radar cảnh giới bầu trời SA
Vũ khí

USS Samuel B. Roberts (DE-413) là một tàu hộ tống khu trục lớp John C. Butler của Hải quân Hoa Kỳ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Con tàu được đặt theo tên của hạ sĩ quan Samuel B. Roberts (1921-1942), người được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân vì sự dũng cảm quên mình trong một trận đánh ở Guadalcanal.

Samuel B. Roberts bị đánh chìm vào ngày 25 tháng 10 năm 1944 trong trận hải chiến ngoài khơi Samar, sau khi cùng một lực lượng tàu chiến nhỏ của Hải quân Hoa Kỳ ngăn chặn thành công một hạm đội hùng mạnh của Nhật Bản có ý định tiến vào vịnh Leyte của Philippines để tấn công hạm đội đổ bộ của quân đội Đồng Minh. Con tàu thuộc biên chế Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.3, hay "Taffy 3", một nhóm tác chiến chỉ có tàu khu trục, tàu hộ tống khu trục và tàu sân bay hộ tống. "Taffy 3" đã vô tình bị bỏ lại và phải chống trả trước hạm đội hùng mạnh của Phó Đô đốc Kurita Takeo ở ngoài khơi đảo Samar, trong Hải chiến Vịnh Leyte vào tháng 10 năm 1944.[1] Samuel B. Roberts đã kiên cường chiến đấu, ghi nhận bắn trúng một quả ngư lôi và nhiều phát đạn vào các tàu chiến Nhật Bản trước khi bị bắn chìm. Sau trận đánh, Samuel B. Roberts được biết đến là "tàu hộ tống khu trục chiến đấu như một thiết giáp hạm."[1] Vào tháng 6 năm 2022, Samuel B. Roberts trở thành xác tàu đắm sâu nhất từng được phát hiện.[2]

Nguồn gốc tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

Samuel Booker Roberts, Jr. sinh ngày 12 tháng 5 năm 1921 ở San Francisco, California. Anh gia nhập Hải quân Trừ bị Hoa Kỳ vào năm 1939 và được gọi phục vụ vào năm 1940. Anh từng phục vụ trên thiết giáp hạm USS California, tàu chở quân USS Heywood trước khi được thuyên chuyển về tàu vận tải tấn công USS Bellatrix.[3]

Năm 1942, tàu Bellatrix tham gia hỗ trợ chiến dịch đổ bộ của quân Đồng Minh vào Guadalcanal, và sau đó, Roberts đã tình nguyện gia nhập một nhóm Kiểm soát Bãi biển đóng tại Mũi Lunga. Đơn vị này bao gồm các thủy thủ của Hải quânTuần duyên Hoa Kỳ, và họ có nhiệm vụ vận chuyển các đơn vị Thủy quân Lục chiến và tiếp tế hàng hóa đến các bãi biển dọc bờ biển phía bắc của hòn đảo, và tham gia sơ tán lính Thủy quân Lục chiến bị thương ra khỏi chiến trường.[3]

Sáng sớm ngày 27 tháng 9 năm 1942, Roberts tình nguyện tham gia nhiệm vụ giải cứu Đại đội A và B của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn Thủy quân Lục chiến số 7, đang bị bao vây bởi quân đội Nhật Bản ở một bãi biển cách Mũi Lunga khoảng một dặm về phía bắc. Một số xuồng Higgins của nhóm cứu hộ đã bị quân Nhật bắn cháy khi đang cố tiếp cận bãi biển. Đứng trước nguy cơ thất bại dường như là rất lớn của nhiệm vụ giải cứu, Roberts đã lái chiếc xuồng Higgins của anh thẳng về vị trí của lính Nhật để thu hút sự chú ý của họ, tạo điều kiện cho các xuồng khác di tản các nhóm Thủy quân Lục chiến ra khỏi bãi biển. Tuy nhiên, khi đang chuẩn bị rút lui, xuồng của Roberts bị trúng đạn và một viên đạn đã bắn trúng cổ của Roberts. Anh được đồng đội đưa về căn cứ và sau đó được di tản khỏi hòn đảo, nhưng không qua khỏi vào buổi tối cùng ngày vì vết thương quá nặng.[3]

Vì sự dũng cảm quên mình "đã góp phần dẫn đến sự thành công của chiến dịch giải cứu", Samuel B. Roberts được truy tặng Huân chương Chữ thập Hải quân vào ngày 10 tháng 2 năm 1943.[3][4]

Thiết kế[sửa | sửa mã nguồn]

Sơ đồ cấu trúc tiêu biểu của các lớp tàu hộ tống khu trục RudderowJohn C. Butler.

Lớp tàu hộ tống khu trục John C. Butler được thiết kế để đáp ứng nhu cầu về việc cần một số lượng lớn tàu hộ tống săn ngầm giá rẻ làm nhiệm vụ bảo vệ các đoàn tàu vận tải, nên chúng được trang bị khá ít hệ thống vũ khí chống hạm. Lớp John C. Butler là một phần của chương trình 720 tàu hộ tống dự kiến hoàn thành vào năm 1944, nhưng con số này sau đó đã được giảm xuống.[5]

Samuel B. Roberts có chiều dài tổng thể là 93,3 mét với sườn ngang rộng 11,18 mét và mớn nước là 4,1 mét. Con tàu có mức choán nước tiêu chuẩn là 1.350 tấn Anh (1.372 tấn) và 1.745 tấn Anh (1.773 tấn) khi đầy tải. Thủy thủ đoàn của tàu bao gồm 14 sĩ quan và 201 thủy thủ.[6]

Động cơ đẩy của Samuel B. Roberts bao gồm hai tuốc bin hơi nước Westinghouse được cấp năng lượng từ hai nồi hơi "D" Express, để có thể tạo ra mức công suất 12.000 shp (8.900 kW) và đạt được tốc độ di chuyển tối đa 24 knot (44 km/h, 28 mph). Con tàu có tầm hoạt động tiêu chuẩn là 6.000 hải lý ở vận tốc 12 knot (22 km/h).[6]

Vũ khí và hệ thống điện tử[sửa | sửa mã nguồn]

Pháo chính của Samuel B. Roberts là hai pháo đa dụng Mark 12 5-inch/38-cal được lắp trong hai tháp pháo đơn kín, một tháp đặt ở khu vực mũi tàu và tháp còn lại đặt ở khu vực đuôi tàu, phía sau hệ thống thượng tầng. Pháo Mark 12 5-inch/38 cal có khả năng chống hạm và phòng không, và được dẫn bắn bởi Hệ thống Kiểm soát Hỏa lực Mark 51. Ngoài ra, con tàu được lắp đặt hai ụ pháo phòng không 40 mm Bofors hai nòng ở phía sau mỗi khẩu pháo 5-inch, và mười pháo phòng không 20 mm Oerlikon nòng đơn, tất cả đều được dẫn bắn bởi Hệ thống Mark 51.[5] Samuel B. Roberts được trang bị một bệ phóng ngư lôi 21-inch gồm ba ống phóng, và hệ thống chống ngầm bao gồm hai ray thả mìn chống ngầm Mark 9, tám máy phóng mìn chống ngầm Mark 6 "K-Gun" và một súng cối chống ngầm Mark 10 Hedgehog. Cảm biến điện tử của tàu bao gồm hệ thống sonar QC,[6] radar dò tìm mặt biển SL[7] và radar cảnh giới bầu trời SA.[8]

Lịch sử hoạt động[sửa | sửa mã nguồn]

Samuel B. Roberts trong buổi lễ hạ thủy ở Công ty Đóng tàu Brown, ngày 20 tháng 1 năm 1944.

Samuel B. Roberts được đặt lườn vào ngày 6 tháng 12 năm 1943 ở Công ty Đóng tàu Brown ở Houston, Texas. Con tàu được hạ thủy vào ngày 20 tháng 1 năm 1944 và được đỡ đầu bởi Bà Anna Roberts, mẹ của hạ sĩ quan Samuel Booker Roberts. Samuel B. Roberts nhập biên chế ngày 28 tháng 4 năm 1944 dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng, Thiếu tá Robert W. Copeland.

Samuel B. Roberts đang neo đậu ngoài khơi Boston, Massachusetts, tháng 6 năm 1944.

Samuel B. Roberts bắt đầu đợt huấn luyện ở ngoài khơi Bermuda từ ngày 21 tháng 5 đến ngày 19 tháng 6 năm 1944. Sau một thời gian ở Xưởng Hải quân Boston, Samuel B. Roberts bắt đầu khởi hành đến Norfolk, Virgina vào ngày 7 tháng 7. Trong ngày hôm đó, con tàu báo cáo có thể đã va chạm với một con cá voi, khiến chân vịt bên phải tàu bị bẻ cong. Công việc sửa chữa được hoàn thành trước ngày 11 tháng 7, và con tàu rời Norfolk ngày 22 tháng 7. Samuel B. Roberts đi qua Kênh đào Panama ngày 27 tháng 7 và gia nhập Hạm đội Thái Bình Dương tại Trân Châu Cảng vào ngày 10 tháng 8 năm 1944.[9]

Con tàu tiếp tục các đợt huấn luyện ở khu vực xung quanh Quần đảo Hawaii đến khi bắt đầu nhiệm vụ hộ tống một đoàn vận tải đến Eniwetok vào ngày 30 tháng 8. Ngày 2 tháng 9, Samuel B. Roberts hộ tống một đoàn vận tải về Trân Châu Cảng và cập bến vào ngày 10 tháng 9. Sau một vài buổi huấn luyện tăng cường, con tàu tiếp tục nhiệm vụ hộ tống một đoàn vận tải đến Eniwetok vào ngày 21 tháng 9, và đến nơi vào ngày 30 tháng 9. Samuel B. Roberts sau đó khởi hành về Đảo Manus thuộc Quần đảo Admiralty ở Tây Nam Thái Bình Dương, và được biên chế vào Đơn vị Đặc nhiệm 77.4.3 (Task Unit 77.4.3), có mật danh "Taffy 3". Con tàu sau đó cùng Taffy 3 di chuyển về Vịnh Leyte của Phillipines, và bắt đầu thực hiện các nhiệm vụ hỗ trợ với Liên đoàn Hỗ trợ Hỏa lực Trên không Khu vực Phía Bắc (NASG) ở ngoài khơi Đảo Samar.[9]

Hải chiến ngoài khơi Samar[sửa | sửa mã nguồn]

Thiếu tá Robert W. Copeland, thuyền trưởng của Samuel B. Roberts

Trước bình minh ngày 25 tháng 10 năm 1944, Samuel B. Roberts tiếp tục nhiệm vụ hộ tống như thường lệ, trong khi các tàu sân bay hộ tống của Taffy 3 chuẩn bị phóng máy bay làm nhiệm vụ hỗ trợ các đơn vị Lục quân Hoa Kỳ đang tiến công ở Phillipines. Khi Taffy 3 đang di chuyển về phía đông Samar, họ chạm trán với Lực lượng Trung tâm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Đây là hạm đội hùng mạnh nhất trong tổng số ba hạm đội chủ lực được người Nhật triển khai vào Philippines theo Kế hoạch Shō-Go (Shō-Itchi-Go, Chiến dịch Victory One). Dưới sự chỉ huy của Phó Đô đốc Kurita Takeo, đơn vị hùng mạnh gồm bốn thiết giáp hạm, sáu tàu tuần dương hạng nặng, hai tàu tuần dương hạng nhẹ và 11 tàu khu trục, đã tấn công và truy đuổi Taffy 3. Trong khi các tàu sân bay hộ tống của Taffy 3 bắt đầu rút chạy về phía đông, lúc 07:40, Thiếu tá Robert W. Copeland, thông qua hệ thống loa thông báo, đã thông báo cho toàn bộ thủy thủ đoàn của mình:

Một hạm đội lớn của Nhật đã bị phát hiện. Họ đang cách chúng ta 15 dặm và đang di chuyển về hướng của chúng ta. Họ được cho là có bốn thiết giáp hạm, tám tàu tuần dương và một số lượng lớn tàu khu trục. Đây sẽ là một cuộc chiến không cân sức mà cơ hội sống sót là điều không thể hi vọng được. Nhưng chúng ta sẽ gây thiệt hại cho kẻ thù nhiều nhất có thể.[10]

Dưới sự bao phủ của khói từ những chiếc tàu khu trục, Samuel B. Roberts thoát khỏi sự chú ý của người Nhật. Không muốn thu hút toàn bộ sự chú ý của người Nhật vào con tàu nhỏ bé của ông, Copeland liên tiếp từ chối lệnh nổ súng của Sĩ quan Pháo thủ - Đại úy William "Bill" Burton. Copeland không muốn phung phí bất cứ viên đạn 5-inch nào, dù các mục tiêu đều trong tầm ngắm và có thể thấy rõ ràng, nhưng khoảng cách vẫn còn rất xa, và ông có ý định phóng ngư lôi ở khoảng cách 4,6 kilômét. Burton liên tiếp yêu cầu nổ súng nhiều đến mức Copeland phải hét lên "Chết tiệt, anh Burton, tôi sẽ cho anh biết khi nào cần phải nổ súng."[11]

Một viên đạn lạc, có thể xuất phát từ một tàu khu trục gần đó, đã bắn trúng cột buồm của Samuel B. Roberts và vô hiệu hóa máy phóng ngư lôi lúc 08:00. Sau khi khôi phục lại máy phóng, ở khoảng cách 3,7 kilômét, Samuel B. Roberts phóng ngư lôi vào Chōkai mà không bị Chōkai bắn trả. Sau khi thay đổi lộ trình di chuyển, Samuel B. Roberts biến mất trong làn khói. Hoa tiêu báo cáo rằng có ít nhất một quả ngư lôi đã bắn trúng, và khiến chiếc Chōkai thất tốc và dạt vào bên rìa của đội hình lúc 08:23.[12][13]

Lúc 08:10, Samuel B. Roberts đang ở rìa của đội tàu sân bay hộ tống. Qua làn khói và cơn mưa dày đặc, tàu tuần dương hạng nặng Chikuma xuất hiện, bắn toàn lực vào đội tàu sân bay. Copeland cho đổi hướng di chuyển và nói với Burton "Anh Burton, anh có thể nổ súng".[14] Samuel B. RobertsChikuma bắt đầu đấu pháo nhau. Bị ép vào khoảng cách gần với tốc độ bắn chậm, Chikuma gặp nhiều khó khăn trong việc bắn vào các con tàu nhỏ và nhanh nhẹn của đối phương,[Note 1] trong khi đó Samuel B. Roberts không gặp khó khăn về vấn đề tốc độ bắn như Chikuma. Trong suốt 35 phút, ở khoảng cách 4,8 kilômét, Samuel B. Roberts đã bắn gần như toàn bộ cơ số đạn 5-inch ở trên tàu vào chiếc Chikuma - hơn 600 viên đạn. Chikuma chịu hư hại nặng dọc con tàu. Hệ thống thượng tầng của tàu bị "biến dạng" sau khi trúng đủ các loại đạn liên tục, từ những viên xuyên giáp, đạn nổ mạnh, đạn cao xạ 20–40 mm tới cả những viên pháo sáng, tạo đám cháy lớn trên con tàu.[15] Đài chỉ huy của Chikuma gần như không còn, cháy lớn xuất hiện dọc hệ thống thượng tầng và tháp pháo số ba đã bị vô hiệu hóa.[16]

Tuy vậy, Chikuma không ở đó một mình, và ngay sau đó, hàng loạt các cột nước đủ màu sắc bốc lên xung quanh chiếc Samuel B. Roberts, tức là con tàu đang ở trong tầm bắn của Yamato, NagatoHaruna. Để tránh các loạt đạn đó, Copeland cho tàu lùi hết tốc lực, tuy nhiên lúc đó con tàu đã trở thành một mục tiêu ngon lành cho tàu chiến Nhật. Lúc 08:51, con tàu trúng một loạt đạn từ tàu tuần dương của Nhật, làm hỏng một động cơ của tàu. Thất tốc xuống còn 31 km/h, Samuel B. Roberts bắt đầu trúng đạn liên tục hơn trước. Thiết giáp hạm Kongō bắn một loạt kết liễu chiếc Samuel B. Roberts lúc 09:00, vô hiệu hóa nốt động cơ còn lại. Chết đứng giữa biển và chìm dần, sứ mệnh của Samuel B. Roberts trong trận đánh đã kết thúc.[17][18]

Lúc 09:35, Thiếu tá Copeland ra lệnh bỏ tàu. Samuel B. Roberts chìm 30 phút sau đó, đem theo sinh mạng của 90 thành viên thủy thủ đoàn.[Note 2] Do vấn đề liên lạc của Đệ Thất Hạm đội và e ngại sự phục kích của tàu ngầm Nhật Bản, 120 người sống sót của Samuel B. Roberts đã tập trung xung quanh ba phao cứu sinh được nối lại với nhau suốt hơn 50 giờ trước khi được giải cứu.[19][20] Cuối cùng, các đơn vị tàu thuộc Nhóm Đặc nhiệm 78.12 (Task Group 78.12 - TG 78.12) xuất hiện, và các thuyền trưởng của TG 78.12 đã dùng một phương pháp phân biệt bạn và thù tiêu chuẩn hồi đó - đặt câu hỏi về chủ đề thể thao của quốc gia họ.[21]

Con tàu ấy tiến lại gần chiếc bè cứu sinh. Đó là một chiếc LCI, một tàu đổ bộ cỡ nhỏ trong biến chế lực lượng Hải quân của MacArthur. Có một thủy thủ mặc chiếc áo màu xanh lá cây ở trên tàu, lo ngại rằng những thủy thủ lấm lét dầu kia có thể là lính Nhật, đã hét lên đầy thách thức, "Ai đã vô địch World Series?". Anh ấy nhận được câu trả lời chính xác "St. Louis, đồ khốn nạn!". Thủy thủ đoàn sau đó đã hạ những chiếc thang Jacob xuống một bên mạn tàu. Những người sống sót còn khỏe mạnh sẽ tự trèo lên thang bằng sức của mình. trong khi đó một chiếc cáng được hạ xuống để đưa những người bị thương lên.[22][23]

Samuel B. Roberts được xóa tên khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 27 tháng 11 năm 1944.[9]

Phần thưởng và vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]

Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/altBản mẫu:Ribbon devices/alt
Bronze star
Bản mẫu:Ribbon devices/alt
Bản mẫu:Ribbon devices/altBản mẫu:Ribbon devices/altBản mẫu:Ribbon devices/alt
Dải băng Hoạt động Tác chiến
Đơn vị Tuyên Dương Tổng thốngHuân chương Chiến dịch Hoa KỳHuân chương Chiến dịch Châu Á-Thái Bình Dương
với một Ngôi sao Chiến trận
Huân chương Chiến thắng Thế Chiến IIĐơn vị Tuyên dương Tổng thống Philippine
(Philippines)
Huân chương Giải phóng Philippines
(Philippines)

Samuel B. Roberts cùng các tàu chiến khác của Taffy 3 được trao thưởng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống "vì sự dũng cảm phi thường trong việc chống lại một lực lượng hùng mạnh của Hải quân Nhật Bản trong trận hải chiến ở ngoài khơi Samar, Philippines, ngày 25 tháng 10 năm 1944." Ngoài ra, con tàu được tặng thưởng một Ngôi sao Chiến trận cho thời gian phục vụ của tàu ở Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.[9]

USS Carr, tàu frigate mang tên lửa lớp Oliver Hazard Perry được đặt theo tên của Hạ sĩ Paul H. Carr.

Hạ sĩ pháo thủ Paul H. Carr là chỉ huy khẩu đội pháo 5-inch số 52 nằm ở đuôi tàu. Khẩu pháo này đã bắn gần như toàn bộ 325 viên đạn pháo trong vòng 35 phút trước khi một túi thuốc súng phát nổ vì sức nóng của khẩu pháo. Trung sĩ Chalmer Goheen - một thợ máy của tàu, đã tìm thấy Carr trong lúc đi tìm kiếm người sống sót ở trong khẩu pháo số 52. Goheen tìm thấy Carr trong bộ dạng quần áo rách tươm và thương tích khắp người, trong khi đang chật vật nạp nốt viên 5-inch cuối cùng vào khẩu pháo.[24] Anh cầu xin Goheen giúp anh nạp nốt viên đạn đó nhưng Goheen từ chối. Goheen sau đó bế Carr ra khỏi khẩu pháo và đưa lên boong chính để chuẩn bị rời tàu. Goheen tiếp tục quay lại khẩu pháo số 52 để tìm thêm người sống sót. Anh tìm thấy James Gregory, đã bị mất cả hai chân và cõng Gregory lên boong tàu. Tiếp tục quay trở lại khẩu pháo, Goheen phát hiện ra Carr đã quay trở lại từ lúc nào, tiếp tục chật vật đưa viên đạn 5-inch cuối cùng vào khẩu pháo đã bị hỏng. Một lần nữa, Goheen bỏ viên đạn khỏi tay Carr và bế người thủy thủ tàn tạ đó lên trên boong tàu, nơi Carr trút hơi thở cuối cùng.[25] Paul H. Carr sau này được truy tặng Huân chương Sao Bạc. Nhằm để vinh danh Carr, tên anh được dùng để đặt cho một con tàu frigate mang tên lửa lớp Oliver Hazard Perry.[26][27]

Thuyền trưởng Samuel B. Roberts, Thiếu tá Robert W. Copeland được trao thưởng Huân chương Chữ Thập Hải quân "vì sự dũng cảm phi thường khi đang đảm nhiệm vai trò thuyền trưởng của USS Samuel B. Roberts (DE-413), trong trận đánh chống lại một lực lượng hùng mạnh của Hải quân Nhật Bản ở ngoài khơi Samar, Philippines, ngày 25 tháng 10 năm 1944."[28][29] Một tàu frigate lớp Oliver Hazard Perry đã được đặt theo tên của Copeland để vinh danh ông.[30]

Tưởng niệm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ, trong Hội trường Cựu sinh viên, một phòng chờ đã được thiết kế để vinh danh Đại úy Lloyd Garnett và các thủy thủ trên tàu Samuel B. Roberts, những người đã giúp mang lại cho con tàu của họ danh tiếng là "tàu hộ tống khu trục chiến đấu như một thiết giáp hạm" trong Hải chiến Vịnh Leyte.[1]
  • Trong Nghĩa trang Quốc gia Fort Rosecrans ở thành phố San Diego, California, có một đài tưởng niệm lớn bằng đá granit được thiết kế vào năm 1995 để tôn vinh thủy thủ đoàn của Samuel B. Roberts, HoelJohnston.

Phát hiện[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 6 năm 2022, một nhóm thám hiểm đại dương của nhà thám hiểm Victor Vescovo, gồm các nhân viên của công ty Caladan Oceanic và EYOS Expeditions, đã công bố tìm thấy xác của Samuel B. Roberts. Nhóm nghiên cứu này đã tìm kiếm, xác định và khảo sát xác tàu trong sáu đợt lặn liên tục được tiến hành từ ngày 17 đến ngày 24 tháng 6 năm 2022. Máy phóng ngư lôi của Samuel B. Roberts được tìm thấy vào ngày 18 tháng 6 năm 2022.[31] Sáu ngày sau, ngày 24 tháng 6, xác của Samuel B. Roberts chính thức được tìm thấy. Nhóm nghiên cứu kết luận rằng con tàu đã chìm trong tình trạng khá nguyên vẹn đến khi chạm đáy đại dương. Cú va chạm đã khiến phần mũi tàu bị biến dạng nhẹ, phần đuôi tàu bị gãy ra và nằm cách phần thân chính khoảng 5 mét. Nhóm nghiên cứu cũng nói thêm họ có thể thấy rõ chiếc cột buồm đã bị đổ sập của Samuel B. Roberts (gây ra do đạn pháo Nhật trong trận đánh), và tìm thấy được những bằng chứng cho thấy con tàu đã chịu đựng những thiệt hại được gây ra bởi đạn pháo của thiết giáp hạm Nhật.[32][33][34]

Samuel B. Roberts nằm thẳng đứng và được bảo quản khá tốt ở độ sâu 6.895 mét so với mặt nước biển, trở thành xác tàu đắm sâu nhất từng được phát hiện, vượt quá kỷ lục trước đó là 6.469 mét (21.224 ft; 4.020 mi), được thiết lập vào tháng 3 năm 2021 khi nhóm của Vescovo tìm thấy và xác định được xác của tàu khu trục USS Johnston - cũng bị đánh chìm trong cùng trận đánh với chiếc Samuel B. Roberts.[34][35]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Vào thời gian đầu của trận đánh, khi biết rằng Samuel B. Roberts sẽ phải làm nhiệm vụ bảo vệ đội hộ tống khỏi các mối đe dọa của tàu mặt nước Nhật Bản, kĩ sư trưởng - Đại úy Herbert "Bill" Trowbridge đã cho toàn bộ máy chạy vượt công suất và quá mức an toàn cho phép, khiến Samuel B. Roberts đạt được tốc độ lên đến 53 km/h so với tốc độ thông thường là 44 km/h.
  2. ^ Trong cuốn hồi ký The Spirit of Sammy B, Robert Copeland xác nhận rằng ông chỉ mất 89 người (3 sĩ quan và 86 thủy thủ) trong trận đánh ngày 25 tháng 10 năm 1944. Nhà sử học James D. Hornfischer và Bộ Tư lệnh Di sản và Lịch sử Hải quân Hoa Kỳ (Naval History and Heritage Command) đều kết luận Samuel B. Roberts mất tổng cộng 90 người (3 sĩ quan và 87 thủy thủ).

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c Wukovits 2013, tr. 6.
  2. ^ “USS Samuel B Roberts: World's deepest shipwreck discovered”. BBC News. Truy cập ngày 26 tháng 6 năm 2022.
  3. ^ a b c d “NO HIGHER HONOR: Coxswain Samuel B. Roberts”. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2008.
  4. ^ “Samuel Booker Roberts - Navy Cross”. The Hall of Valor Project. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2022.
  5. ^ a b Friedman 1982, tr. 141, 149.
  6. ^ a b c Friedman 1982, tr. 421.
  7. ^ Friedman 1981, tr. 149.
  8. ^ Friedman 1981, tr. 146.
  9. ^ a b c d Naval Historical Center. Samuel B. Roberts I (DE-413). Dictionary of American Naval Fighting Ships. Navy Department, Naval History and Heritage Command.
  10. ^ Hornfischer 2004, tr. 179.
  11. ^ Hornfischer 2004, tr. 289.
  12. ^ “USS Kalinin Bay (CVE-68): Action Report of 25 October 1944”. U.S. Navy. 18 tháng 3 năm 2024. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2012 – qua bosamar.com.
  13. ^ Hornfischer 2004, tr. 253–255.
  14. ^ Hornfischer 2004, tr. 286.
  15. ^ Wukovits 2013, tr. 148.
  16. ^ Hornfischer 2004, tr. 285–289.
  17. ^ Hornfischer 2004, tr. 325–332.
  18. ^ “Combined Action Report, Surface Engagement off Samar, Philippine Islands, and Report of loss of USS Samuel B. Roberts (DE-413) on 25 October 1944” (PDF). U.S. Navy. ngày 20 tháng 11 năm 1944. Truy cập ngày 20 tháng 6 năm 2022 – qua Hyperwar Foundation.
  19. ^ Hornfischer 2004, tr. 375–380, 440.
  20. ^ “USS PC 1119 War Diary, October 1944”. U.S. Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2012 – qua bosamar.com.
  21. ^ “The Battle Off Samar – Taffy III at Leyte Gulf”. bosamar.com. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2022.
  22. ^ Hornfischer 2004, tr. 438–440.
  23. ^ “USS PC 623 War Diary, 25-28 October 1944”. U.S. Navy. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2012 – qua bosamar.com.
  24. ^ Hornfischer 2004, tr. 332.
  25. ^ Hornfischer 2004, tr. 372-373.
  26. ^ “Adwards recieved by Task Unit 77.4.3 - Gunner's Mate Third Class PAUL HENRY CARR”. Bosamar. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2022.
  27. ^ “USS Carr (FFG 52)”. NavSource. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2022.
  28. ^ “NH 90677 Lieutenant Commander Robert W. Copeland, USNR”. Naval History and Heritage Command. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2022.
  29. ^ “Awards received by Task Unit 77.4.3 - Lieutenant Commander ROBERT WITCHER COPELAND”. Bosamar. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2022.
  30. ^ “USS Copeland (FFG 25)”. NavSource. Truy cập ngày 10 tháng 6 năm 2022.
  31. ^ “Triple torpedo tube mount from the USS Samuel B. Roberts (DE-413)”. Facebook. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.
  32. ^ Vescovo, Victor. “Part of the dive on the Sammy B”. Twitter. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.
  33. ^ Vescovo, Victor. “The wreck of the Samuel B. Roberts (DE-413)”. Twitter. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.
  34. ^ a b Amos, Jonathan (24 tháng 6 năm 2022). “USS Samuel B Roberts: World's deepest shipwreck discovered”. Yahoo! News. BBC. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 24 tháng 6 năm 2022.
  35. ^ Buckley, Julia (24 tháng 6 năm 2022). “Explorers find the world's deepest shipwreck four miles under the Pacific”. CNN. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2022.

Sách tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/USS_Samuel_B._Roberts_(DE-413)