Wiki - KEONHACAI COPA

Timothée Chalamet

Timothée Chalamet
SinhTimothée Hal Chalamet
27 tháng 12, 1995 (28 tuổi)
Thành phố New York, Hoa Kỳ
Tư cách công dân
Học vịFiorello H. LaGuardia High School
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động2007–hiện tại
Người đại diệnUnited Talent Agency (UTA)[2]
Chiều cao178 cm (5 ft 10 in)[3]
Cha mẹ
  • Marc Chalamet (cha)
  • Nicole Flender (mẹ)
Giải thưởngDanh sách đầy đủ

Timothée Hal Chalamet (/ˈtɪməθi ˈʃæləm/;[a] sinh ngày 27 tháng 12 năm 1995) là một nam diễn viên người Mỹ–Pháp. Chalamet bắt đầu sự nghiệp diễn xuất của mình bằng những bộ phim ngắn trước khi xuất hiện trong phim truyền hình Tổ quốc (2012). Anh lần đầu ra mắt với vai trò diễn viên điện ảnh bằng vai phụ trong Men, Women & Children (2014) và trong phim khoa học viễn tưởng của Christopher Nolan Hố đen tử thần (2014).

Năm 2017, Chalamet được công nhận rộng rãi với vai chính trong bộ phim điện ảnh lãng mạn của đạo diễn Luca Guadagnino Call Me by Your Name. Màn thể hiện trong Call Me by Your Name mang về cho anh một đề cử giải Oscar, giúp anh trở thành người trẻ tuổi thứ ba được Viện Hàn lâm đề cử cho hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, đồng thời cũng là người trẻ tuổi nhất kể từ năm 1939. Chalamet sau đó có một số vai phụ tiêu biểu trong phim tuổi mới lớn Lady Bird: Tuổi nổi loạn (2017), phim Viễn Tây Hostiles (2017) và đặc biệt là vai diễn thiếu niên nghiện ngập Nic Sheff trong Beautiful Boy (2018) giúp anh được đề cử giải BAFTA cho Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất. Năm 2019, Chalamet vào vai chính trong các phim chính kịch cổ trang Quốc vươngNhững người phụ nữ bé nhỏ. Năm 2021, anh đóng chính trong nhiều bộ phim của các đạo diễn tên tuổi như vai Paul Atreides trong phim sử thi khoa học viễn tưởng Dune: Hành tinh cát của Denis Villeneuve, The French Dispatch của Wes AndersonĐừng nhìn lên của Adam McKay.

Trên sân khấu, Chalamet đã đóng vai chính trong vở kịch tự truyện Prodigal Son (2016) và được đề cử Giải Liên đoàn kịch Hoa Kỳ cho Màn trình diễn xuất sắc, giành được Giải Lucille Lortel cho Nam diễn viên chính sân khấu xuất sắc nhất.

Cuộc đời và sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Chalamet sinh ra ở quận Manhattan, thành phố New York và lớn lên tại vùng ngoại ô Hell’s Kitchen.[7][8] Mẹ của anh, Nicole Flender, một nhà môi giới bất động sản, là cựu vũ công của nhà hát Broadway, còn cha anh, Marc Chalamet, là biên tập viên của UNICEF.[8][9] Chalamet có một người chị gái tên Pauline (sinh năm 1992), là diễn viên hiện đang sinh sống ở Paris.[8] Anh có người cậu là nhà làm phim Rodman Flender và người dì là biên kịch, nhà sản xuất truyền hình Amy Lippman. Ông ngoại của Chalamet, Harold Flender, từng là một biên kịch, còn bà ngoại anh, Enid Flender, cũng là cựu vũ công Broadway giống như mẹ anh.[8][10]

Trường Trung học Fiorello H. LaGuardia High School of Music & Art and Performing Arts nơi Chalamet từng theo học.

Chalamet thông thạo hai ngôn ngữ là tiếng Anh và tiếng Pháp,[b][12] đồng thời cũng mang hai quốc tịch Mỹ–Pháp[13] và có xuất thân đa quốc gia: mẹ anh là dân New York chính gốc đời thứ ba (có tổ tiên là người Nga và Áo) và theo đạo Do Thái; trong khi đó cha anh mang quốc tịch Pháp (ông nội anh là người Pháp còn bà nội vốn là người Canada di cư sang Pháp),[14] đến từ Nîmes và là một tín đồ đạo Tin Lành.[9][15][16][17][18] Thời thơ ấu, anh dành nhiều kì nghỉ hè với ông bà nội của mình ở Le Chambon-sur-Lignon, một ngôi làng nhỏ cách thành phố Lyon hai giờ đồng hồ di chuyển.[19] Chalamet nói rằng khoảng thời gian ở Pháp đã hình thành nên những bản sắc, sự giao thoa văn hóa trong con người anh.[20] Phỏng vấn với tờ La Presse, anh kể: "Khi tôi ở đó [Pháp], tôi trở thành phiên bản Pháp của chính mình. Tôi hoàn toàn thấm nhuần nền văn hóa [Pháp], thậm chí đã từng có giấc mơ bằng tiếng Pháp."[21] Mơ ước thuở nhỏ của Chalamet là trở thành cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp: "Tôi từng làm huấn luyện viên tại một trại hè bóng đá ở Pháp, huấn luyện cho mấy đứa nhỏ từ sáu đến mười tuổi khi tôi mới 13."[19]

Chalamet theo học tại trường Tiểu học PS 87 William T. Sherman, sau đó học chương trình Delta tuyển chọn tại trường Trung học cơ sở MS 54 Booker T. Washington, theo như anh miêu tả là "ba năm khốn khổ" vì thiếu đi góc sáng tạo do môi trường học tập quá khắc nghiệt.[15] Việc Chalamet trúng tuyển vào trường Trung học phổ thông Âm nhạc & Nghệ thuật và Biểu diễn nghệ thuật Fiorello H. LaGuardia chính là bước ngoặt trong nhận thức của anh về niềm đam mê diễn xuất.[22] Harry Shifman, giáo viên dạy kịch của Chalamet khi anh học năm hai ở LaGuardia,[23] đặc biệt ấn tượng với màn thử vai của anh nên đã khăng khăng nhận Chalamet vào trường dù trước đó anh đã bị từ chối trong vòng phỏng vấn. Ông nói, "Tôi đã chấm cho cậu ấy [Chalamet] điểm cao nhất trong số tất cả những buổi thử vai trẻ mà tôi làm giám khảo."[24] Năm 2013, Chalamet tốt nghiệp trường Trung học LaGuardia. Anh đóng vai chính trong nhiều vở nhạc kịch tại trường học, như vai Emcee trong vở Cabaret và Oscar Lindquist trong Sweet Charity.[25][26] Anh cũng là cựu học viên của YoungArts, một tổ chức từ thiện của Mỹ giúp nuôi dưỡng các nghệ sĩ trung học mới nổi.[27]

Sau khi tốt nghiệp trung học, Chalamet theo học tại trường Đại học Columbia trong vòng một năm, chuyên ngành nhân văn học.[19][28] Anh sau đó chuyển đến trường Gallatin School of Individualized Study (một nhánh của trường Đại học New York), để tiện hơn cho việc theo đuổi nghiệp diễn,[29] cũng như thấy việc tiếp tục theo học ở Columbia là quá khó khăn ngay sau khi hoàn tất bộ phim Hố đen tử thần (2014).[30] Rời Columbia, anh chuyển tới Concourse, Bronx sinh sống.[8][31]

2008–2016: Những vai diễn đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Ngay từ khi còn nhỏ, Chalamet đã xuất hiện trong nhiều quảng cáo, bên cạnh đó là các vai diễn trong hai phim kinh dị ngắn Sweet ToothClown. Anh có lần ra mắt màn ảnh nhỏ đầu tiên với vai nạn nhân của một vụ giết người trong seri phim cảnh sát hình sự dài tập Law & Order (2009),[19] nối tiếp đó là vai phụ trong phim truyền hình Loving Leah (2009). Năm 2011 đánh dấu lần đầu tiên Chalamet ra mắt trên sân khấu trong một vở hài kịch tuổi mới lớn Off-Broadway mang tên The Talls, lấy bối cảnh những năm 70 của thế kỉ trước. Chalamet khi ấy 16 tuổi đảm nhiệm vai cậu nhóc Nicholas 12 tuổi luôn tò mò chuyện giới tính. Tổng biên tập mảng phê bình kịch nghệ sân khấu của tờ New York Daily News viết: "Chalamet đã khắc họa một cách rất vui nhộn sự hiếu kì về giới tính đang dần thức tỉnh trong một đứa trẻ tuổi dậy thì."[32][33] Năm 2012, anh trở lại với vai trò một diễn viên phim truyền hình trong seri Royal Pains, tiếp theo đó là vai người con ương ngạnh Finn Walden trong Homeland, seri phim gián điệp-giật gân được giới chuyên gia đánh giá rất cao. Chalamet cùng các bạn diễn trong Tổ quốc đã nhận được một đề cử từ Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh Hoa Kỳ cho Màn trình diễn đột phá của một dàn diễn viên.[34]

Chalamet tại Liên hoan phim quốc tế Toronto 2014

Năm 2014 đánh dấu lần đầu tiên Chalamet xuất hiện trên màn ảnh rộng với vai phụ Danny Vance, trong tác phẩm bị giới phê bình chỉ trích Men, Women & Children của đạo diễn Jason Reitman.[35] Cũng trong năm 2014, anh vào vai Tom Cooper trong phim khoa học viễn tưởng Hố đen tử thần của đạo diễn Christopher Nolan.[36] Phim nhận được đánh giá rất tích cực của khán giả cũng như những khen ngợi từ giới chuyên gia về diễn xuất của các diễn viên, thu về tới 675 triệu USD trên toàn cầu.[37][38][39] Chalamet khép lại năm 2014 của mình với vai diễn Sam thời niên thiếu trong phim hài Worst Friends. Dù chỉ có số suất chiếu giới hạn nhưng tác phẩm cũng nhận được nhiều đánh giá tích cực.[40] Năm 2015, anh vào vai chính Zac trong bộ phim viễn tưởng-giật gân One & Two, đạo diễn bởi Andrew Droz Palermo. Tác phẩm kể về nhân vật Zac cùng với em gái của mình—Eva, sau khi người mẹ đổ bệnh, bắt đầu khám phá ra những siêu năng lực kì lạ và nhiều bí mật đen tối tồn tại trong gia đình. One & Two nhận được đánh giá trái chiều khi xuất hiện lần đầu tại Liên hoan phim quốc tế Berlin, sau đó ra rạp với số suất chiếu hạn chế.[41][42][43] Vai diễn kế tiếp của Chalamet là nhân vật Stephen Elliott thời niên thiếu trong bộ phim của đạo diễn Pamela Romanowsky, The Adderall Diaries.[44] Năm 2015 của anh kết thúc với vai diễn cậu cháu trai rầu rĩ Charlie Cooper của phim hài mùa Giáng sinh mang tên Giáng sinh nhớ đời, tuy nhiên phim lại nhận được phản hồi tiêu cực.[45]

Chalamet nhấn mạnh rằng trong khoảng thời gian sau Hố đen tử thần—vai diễn anh đã trông đợi sẽ là một cú hích trong sự nghiệp—[8] anh tham gia nhiều buổi thử vai nhưng tiếc thay đều thất bại, chẳng hạn như Ác quỷ sàn catwalk (2016), Thuyết yêu thương (2014) và White Boy Rick (2018).[31]

Tháng 2 năm 2016, Chalamet vào vai chính Jim Quinn trong vở kịch tự truyện Prodigal Son của nhà hát Manhattan Theatre Club.[46] Diễn xuất của anh trong Prodigal Son nhận được nhiều khen ngợi và mang về một đề cử của Liên đoàn kịch Hoa Kỳ cho Màn trình diễn xuất sắc, cùng với đó là một chiến thắng tại lễ trao giải Lucille Lortel cho hạng mục Nam diễn viên chính sân khấu xuất sắc nhất.[47][48][49][50] Chalamet tiếp tục tham gia vào phim điện ảnh Miss Stevens của đạo diễn Julia Hart, đảm nhiệm vai cậu học trò nghịch ngợm Billy Mitman. Nhận xét về vai diễn này, Stephen Farber của tờ The Hollywood Reporter viết: "Cậu ấy [Chalamet] vẫn luôn rất thu hút ngay cả khi chỉ yên lặng dõi theo các nhân vật khác và tương tác với họ. Còn khi cậu ấy bùng nổ với những xúc cảm giận dữ, điên cuồng, thì lại khiến cho tất cả chúng ta phải sửng sốt. [...]"[51]

2017–nay: Đột phá[sửa | sửa mã nguồn]

Chalamet tại buổi họp báo phim Call Me by Your Name, Liên hoan phim quốc tế Berlin 2017

Mở đầu năm 2017 của Chalamet là vai chính mà anh đã được chỉ định trước đó ba năm, trong phim điện ảnh chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên năm 2007 của André Aciman, Call Me by Your Name, đạo diễn bởi Luca Guadagnino.[52][53] Lấy bối cảnh tại vùng nông thôn miền Bắc nước Ý năm 1983, bộ phim xoay quanh mối quan hệ lãng mạn giữa thiếu niên 17 tuổi Elio Perlman (Chalamet) và sinh viên 24 tuổi người Mỹ, Oliver (Armie Hammer), trợ lí thực tập cho cha của Elio. Để chuẩn bị cho phim, Chalamet đã học tiếng Ý và đàn ghita, đồng thời cũng luyện tập lại đàn piano.[30] Phim có buổi công chiếu đầu tiên tại Liên hoan phim Sundance tháng 1 năm 2017 và nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt, bên cạnh đó diễn xuất của Chalamet cũng được đánh giá cao.[54][55] Jon Frosch của tờ The Hollywood Reporter viết: "Không có màn trình diễn nào của năm nay có thể chân thực theo một cách vừa cảm động, vừa rất thể xác mà cũng rất tâm hồn như vậy", đồng thời anh liệt Chalamet vào danh sách những màn thể hiện tuyệt vời nhất năm 2017 của tạp chí.[56] Tương tự, The New York Times cũng đưa Chalamet vào danh sách của mình, tôn vinh anh là một trong những nam diễn viên xuất sắc nhất của năm.[57] Màn trình diễn của Chalamet trong Call Me by Your Name đã mang về cho anh một chiến thắng tại Lễ trao giải phim Độc lập Gotham hạng mục Nam diễn viên đột phá,[58] đồng thời cũng giúp anh nhận được đề cử cho hạng mục Nam diễn viên xuất sắc nhất tại các lễ trao giải lớn khác như Giải Quả cầu vàng lần thứ 75, Giải thưởng của Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh, Giải BAFTA lần thứ 71Giải Oscar lần thứ 90.[59] Chalamet là người trẻ thứ ba trong lịch sử lễ trao giải Oscar được đề cử tại hạng mục Nam diễn viên chính xuất sắc nhất, khi đó anh 22 tuổi, và là người trẻ nhất trong vòng 80 năm kể từ Mickey Rooney năm 1939.[60][61][62][63]

Tác phẩm thứ hai trong năm 2017 mà Chalamet tham gia là Hot Summer Nights của đạo diễn Elijah Bynum. Anh vào vai Daniel Middleton, một thiếu niên vụng về bị cuốn vào công việc bán ma túy trong suốt mùa hè khi anh được mẹ gửi đến ở nhờ nhà họ hàng ở vùng Cape Cod. Phim có số suất chiếu giới hạn vào tháng 7 năm 2018 và nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ giới chuyên môn, dù màn thể hiện của Chalamet vẫn thường được đánh giá là nổi bật.[64][65][66] Cũng trong năm 2017, anh vào vai cậu ấm nhà giàu sành điệu Kyle Scheible, thành viên trong một ban nhạc và cũng là bạn trai của nữ chính do Saoirse Ronan đảm nhiệm trong phim điện ảnh Lady Bird: Tuổi nổi loạn, tác phẩm đầu tay trong vai trò đạo diễn của Greta Gerwig.[67] Dàn diễn viên nhận được nhiều lời khen ngợi, trong đó Ty Burr của tờ The Boston Globe đánh giá vai diễn của Chalamet là "rất thú vị".[68] Tháng 12 năm 2017 đánh dấu bộ phim cuối cùng của anh trong năm—phim Viễn Tây Hostiles, đạo diễn bởi Scott Cooper, trong đó Chalamet vào vai người quân nhân Philippe DeJardin.[20]

Chalamet tại Liên hoan phim quốc tế Toronto 2018

Năm 2018, Chalamet gia nhập Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Điện ảnh Hoa Kỳ.[69] Vai diễn tiếp theo của anh là thiếu niên nghiện ngập Nic Sheff trong phim Beautiful Boy của đạo diễn Felix van Groeningen[70] giúp Chalamet nhận được đề cử cho hạng mục Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất trong lễ trao giải của Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh Hoa Kỳ, Quả cầu vàngViện Hàn lâm Anh.[71]

Năm 2019, Chalamet tham gia vào phim hài lãng mạn Chuyện ngày mưa ở New York,[72] tuy nhiên bộ phim chỉ được chiếu với số lượng rất ít do những cáo buộc tình dục chống lại đạo diễn của phim, Woody Allen. Cũng bởi lý do này mà Chalamet đã quyết định quyên góp toàn bộ tiền cát-xê anh nhận được từ bộ phim cho các tổ thức từ thiện Time’s Up, LGBT Center of New YorkRAINN.[73][74][75] Tiếp theo đó, anh vào vai hoàng tử trẻ tuổi của Vương quốc Anh Henry V, người bất đắc dĩ phải thừa kế ngai vàng sau khi vua cha qua đời, trong phim chính kịch dựa trên vở Henriad của Shakespeare, Quốc vương, đạo diễn bởi David Michôd và được chiếu trên nền tảng Netflix.[76][77] Phim thứ ba trong năm 2019 của Chalamet, đồng thời cũng là lần thứ hai anh cộng tác cùng bạn diễn Saoirse Ronan và đạo diễn Greta Gerwig, Những người phụ nữ bé nhỏ, được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của Louisa May Alcott. Anh vào vai Theodore "Laurie" Laurence, một chàng trai trẻ chìm đắm trong tình yêu.[78] Phim có phản hồi tích cực từ giới chuyên môn. Diễn xuất của Chalamet nhận được nhiều lời khen ngợi, trong đó có Peter Travers của tờ Rolling StoneAnn Hornaday của The Washington Post; Travers nhận xét Chalamet đã khắc họa sinh động vai diễn với "sức hút bẩm sinh và vẻ u buồn đầy cảm động".[79][80]

Năm 2021, Chalamet xuất hiện trong phim điện ảnh hài-chính kịch The French Dispatch của đạo diễn Wes Anderson, đánh dấu lần thứ ba anh cộng tác cùng Saoirse Ronan.[81][82] Anh vào vai chính Paul Atreides trong tác phẩm điện ảnh Dune: Hành tinh cát chuyển thể từ tiểu thuyết khoa học viễn tưởng cùng tên, đạo diễn bởi Denis Villeneuve.[83][84] Phim hài Đừng nhìn lên của Adam McKay cũng có sự góp mặt của Chalamet.[85]

Các dự án sắp ra mắt[sửa | sửa mã nguồn]

Chalamet sẽ cùng nữ diễn viên Taylor Russell đóng chính trong bộ phim Bones & All của đạo diễn Luca Guadagnino, chuyển thể từ cuốn sách cùng tên.[86] Tháng 4 năm 2020 là lần đầu tiên anh ra mắt tại các nhà hát London với vở kịch 4000 Miles của đạo diễn Amy Herzog,[87] tuy nhiên công đoạn chuẩn bị cho vở kịch phải hoãn lại do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.[88] Chalamet sẽ vào vai Bob Dylan trong phim điện ảnh kể về cuộc đời của nam ca sĩ, mang tên Going Electric, đạo diễn bởi James Mangold,[89] nhưng cũng do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 ở Hoa Kỳ, việc tiến hành sản xuất bộ phim đã phải tạm dừng.[90] Tháng 5 năm 2021, anh được chọn vào vai Willy Wonka thời trẻ trong phim ca nhạc Wonka của đạo diễn Paul King, dự kiến ​​ra mắt vào tháng 3 năm 2023.[91] Anh sẽ trở lại với vai chính Paul Atreides trong phần phim tiếp nối của Dune: Hành tinh cát mang tên Dune: Part Two, dự kiến ra mắt vào ngày 23 tháng 10 năm 2023.[92]

Các tác phẩm đã tham gia[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Chưa ra mắtChưa ra mắt
NămTựa đềVai diễnĐạo diễnGhi chú
2008Sweet ToothSamuelRory Kindersley, Jason Noto
ClownCậu bé HềTate Steinsiek
2014Men, Women & ChildrenDanny VanceJason Reitman
SpinnerJaceErik L. Barnes
InterstellarTom Cooper (trẻ)Christopher Nolan
Worst FriendsSam (trẻ)Ralph Arend
2015One & TwoZacAndrew Droz Palermo
The Adderall DiariesStephen ElliottPamela Romanowsky
Giáng sinh nhớ đờiCharlie CooperJessie Nelson
2016Miss StevensBilly MitmanJulia Hart
2017Call Me by Your NameElio PerlmanLuca Guadagnino
Hot Summer NightsDaniel MiddletonElijah Bynum
Lady Bird: Tuổi nổi loạnKyle ScheibleGreta Gerwig
HostilesPhilippe DeJardinScott Cooper
2018Beautiful BoyNic SheffFelix van Groeningen
Chuyện ngày mưa ở New YorkGatsby WellesWoody Allen
2019Quốc vươngVua Henry VDavid Michôd
Những người phụ nữ bé nhỏTheodore "Laurie" LaurenceGreta Gerwig
2021The French DispatchZeffirelli B.Wes Anderson
Dune: Hành tinh cátPaul AtreidesDenis Villeneuve
A Man Named ScottChính mìnhRobert AlexanderPhim tài liệu
Đừng nhìn lênYuleAdam McKay
2022Bones & AllLeeLuca GuadagninoĐóng chính kiêm sản xuất
2023WonkaWilly Wonka thời trẻPaul KingĐã công chiếu

Truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

NămTựa đềVai diễnGhi chú
2009Law & OrderEric FoleyTập "Pledge"
Loving LeahJake Lever (trẻ)Phim điện ảnh truyền hình
2011What Would You Do?Không được ghi côngTập "Ginger Abuse"
2012Royal PainsLuke4 tập
HomelandFinn Walden8 tập
2013TrooperLee Flaxton
2020Graduate Together: America Honors the High School Class of 2020[c]Chính mìnhChương trình đặc biệt
We Are Who We AreNgười qua đườngDiễn viên quần chúng
Tập "Right here, right now #3"
2020–2021Saturday Night LiveDẫn chương trình và cameo2 tập

Sân khấu[sửa | sửa mã nguồn]

Chưa ra mắtChưa ra mắt
NămTựa đềVai diễnSân khấu
2011The TallsNicholas ClarkeMcGinn/Cazale Theatre
2016Prodigal SonJim QuinnManhattan Theatre Club
20204000 Miles Chưa ra mắtLeo Joseph-ConnellThe Old Vic

Quảng cáo[sửa | sửa mã nguồn]

NămTựa đềVai diễnGhi chú
2021"All-Electric Cadillac Lyriq"Edgar ScissorhandsQuảng cáo Super Bowl LV

Giải thưởng và đề cử[sửa | sửa mã nguồn]

Màn trình diễn của Chalamet trong Call Me by Your Name đã mang về cho anh một chiến thắng tại lễ trao giải phim Độc lập Gotham hạng mục Nam diễn viên đột phá, đồng thời cũng giúp anh nhận được đề cử cho hạng mục Nam diễn viên xuất sắc nhất tại các lễ trao giải lớn khác như giải Quả cầu vàng lần thứ 75, giải thưởng của Nghiệp đoàn Diễn viên Màn ảnh (SAG), giải BAFTA lần thứ 71, giải Critics' Choice lần thứ 23giải Oscar lần thứ 90. Vai phụ trong Lady Bird cũng giúp anh cùng dàn diễn viên của phim nhận được các đề cử cho Màn trình diễn đột phá tại lễ trao giải Critics' Choice lần thứ 23 và giải SAG.[62][93] Với vai cậu thiếu niên nghiện ngập trong bộ phim Beautiful Boy của đạo diễn Felix van Groeningen, Chalamet được đề cử cho hạng mục Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất của giải SAG, giải Quả Cầu Vànggiải BAFTA.[94][95][96]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tên của Chalamet phát âm trong tiếng Anh là /ˈtɪməθi ˈʃæləm/,[4][5] nhưng trong tiếng Pháp lại là [timɔte ʃalamɛ], theo như anh giới thiệu mới thực sự là phát âm đúng. Tuy nhiên Chalamet quyết định sử dụng phiên bản tiếng Anh hóa mỗi khi trò chuyện bằng tiếng Anh vì cảm thấy việc yêu cầu mọi người phải đọc đúng cái tên Pháp là quá "phô trương và khiên cưỡng".[6]
  2. ^ Trong một số của chương trình The Graham Norton Show, Chalamet tự đánh giá độ lưu loát của anh khi sử dụng tiếng Pháp là khoảng 97%.[11]
  3. ^ Một chương trình đặc biệt chiếu trên các kênh truyền hình lớn của Mỹ vào ngày 16 tháng 5 năm 2020, được tổ chức nhằm vinh danh các học sinh cuối cấp ba khóa 2020 không thể tổ chức lễ tốt nghiệp do trường học đóng cửa bởi ảnh hưởng của đại dịch COVID-19.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Nhiều nguồn:
    • Drell, Cady (ngày 13 tháng 7 năm 2018). “This Week in Timothée Hal Chalamet, July 13 Edition”. Marie Claire (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc 27 tháng 3 năm 2019. Truy cập 23 tháng 3 năm 2019. ...from France, where incidentally, Timothée Chalamet’s father was born. (That’s why Timmy has dual citizenship and speaks fluent French...
    • “Oscars: Hollywood s'arrache Timothée Chalamet, un Franco-Américain de 22 ans”. LExpress.fr (bằng tiếng Pháp). ngày 4 tháng 3 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.
    • “Rencontre avec Timothée Chalamet, "the next big thing" du cinéma hollywoodien”. Les Inrocks (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.
    • “Dans quels cas un enfant est-il Français ?”. www.service-public.fr (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2019.
  2. ^ “Sundance Breakout Timothee Chalamet Joining Steve Carell in 'Beautiful Boy' (Exclusive)”. The Hollywood Reporter. ngày 6 tháng 2 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2020.
  3. ^ “Timothée Chalamet Biography” (bằng tiếng Anh). IMDb. Lưu trữ bản gốc 24 tháng 6 năm 2018. Truy cập 22 tháng 4 năm 2020.
  4. ^ “Don't Talk | Armie Hammer and Timothée Chalamet from CALL ME BY YOUR NAME”. YouTube. Alamo Drafthouse. ngày 27 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2018.
  5. ^ “Timothée Chalamet on His Dream Roles and 'Homeland'. Teen Vogue. ngày 1 tháng 10 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2019.
  6. ^ Barrett, Devin (ngày 6 tháng 2 năm 2018). “Timothée Chalamet by Frank Ocean”. V Man. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 17 tháng 2 năm 2019.
  7. ^ “Timothée Chalamet”. Giải Quả cầu vàng. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2017.
  8. ^ a b c d e f Riley, Daniel (ngày 14 tháng 2 năm 2018). “The Arrival of Timothée Chalamet”. GQ. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2018.
  9. ^ a b Piette, Jérémy (ngày 26 tháng 2 năm 2018). “Timothée Chalamet, appelez-le par son nom” [Timothée Chalamet, call him by his name]. Libération (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2018.
  10. ^ Nepales, Ruben V. (ngày 9 tháng 2 năm 2018). “Will Timothée Chalamet be the youngest Oscar best actor winner at 22?”. Philippine Daily Inquirer. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
  11. ^ “You're Probably Pronouncing Timothée Chalamet's Name Wrong”. ScreenRant.com. ngày 6 tháng 10 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 2 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2020.
  12. ^ Boudsocq, Stéphane (ngày 28 tháng 2 năm 2018). "La Ch'tite famille" et "Call Me By Your Name" dans les sorties de la semaine”. RTL (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2018.
  13. ^ Goldberg, Jacky (ngày 6 tháng 2 năm 2018). “Rencontre avec Timothée Chalamet, "the next big thing" du cinéma hollywoodien”. Les Inrockuptibles (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 6 năm 2018.
  14. ^ Demars, Céline (ngày 3 tháng 3 năm 2018). “Les racines auvergnates de Timothée Chalamet, nouveau chouchou d'Hollywood à 22 ans”. La Montagne (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 6 năm 2018.
  15. ^ a b Josh Horowitz (ngày 8 tháng 12 năm 2017). “Happy Sad Confused”. Stitcher (Podcast). MTV. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2018.
  16. ^ Kellaway, Kate (ngày 15 tháng 10 năm 2017). “Call Me By Your Name's Oscar-tipped double act on their summer of love”. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 13 tháng 4 năm 2018.
  17. ^ Bloom, Nate (ngày 29 tháng 3 năm 2018). “Celebrity Jews: Timothée Chalamet & TV Catch-Up”. The Jewish News. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2018. son of an American Jewish mother and a French Protestant father.
  18. ^ “Oscars: Hollywood s'arrache Timothée Chalamet, un Franco-Américain de 22 ans”. LExpress.fr (bằng tiếng Pháp). ngày 4 tháng 3 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 2 năm 2019.
  19. ^ a b c d Herman, James Patrick (ngày 6 tháng 2 năm 2015). “Timothée Chalamet – Takes off in Interstellar”. Verge Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 2 năm 2015.
  20. ^ a b Marotta, Jenna (ngày 17 tháng 11 năm 2017). 'Call Me by Your Name': Timothée Chalamet is Learning How to Be a Man, Onscreen and Off”. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2018.
  21. ^ Lussier, Marc-André (ngày 15 tháng 12 năm 2017). “Timothée Chalamet, nouvelle étoile du cinéma mondial”. La Presse (bằng tiếng Pháp). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2018.
  22. ^ “PeopleHop: Timothée Chalamet”. Bwog. ngày 19 tháng 9 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 8 năm 2017.
  23. ^ Scott Feinberg (ngày 19 tháng 2 năm 2018). 'Awards Chatter' Podcast — Timothee Chalamet ('Call Me by Your Name')”. The Hollywood Reporter (Podcast). Sự kiện xảy ra vào lúc 34:04-34:17. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2018.
  24. ^ Duboff, Josh (ngày 19 tháng 1 năm 2018). “Meet Timothée Chalamet and Ansel Elgort's High-School Drama Teacher, Mr. Shifman”. Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 6 năm 2018.
  25. ^ Freedman, Adrianna Chaviva (ngày 5 tháng 2 năm 2018). “Timothee Chalamet Is The Youngest In 80 Years To Be Nominated For Best Actor”. The Forward. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2018.
  26. ^ Bell, Crystal (ngày 27 tháng 2 năm 2018). “Timothée Chalamet Is Still Learning How To Be A Leading Man”. MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 4 năm 2018. Chalamet learned the craft, while trying out for school productions of Cabaret and Sweet Charity
  27. ^ “2013 YoungArts Winners” (PDF). YoungArts. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2017.
  28. ^ West, James (ngày 31 tháng 3 năm 2018). “Back in the day with Timothée Chalamet”. HERO Magazine (xuất bản ngày 30 tháng 4 năm 2015). Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2018. I'm at Columbia University in New York, majoring in cultural anthropology.
  29. ^ Kaufman, Amy (ngày 17 tháng 11 năm 2017). “Timothée Chalamet is Hollywood's next big thing with 'Call Me by Your Name' and 'Lady Bird'. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2018.
  30. ^ a b McConaughey, Matthew (ngày 2 tháng 6 năm 2017). “Timothée Chalamet”. Interview. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 6 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017. Anyway, I did a year at Columbia, and I just kind of floundered. Maybe it wasn’t the right place for me. [...] Columbia takes a wholehearted academic commitment that I think I have in me, but it was just not where my mind was at the time. I’d just left working a month and a half in Canada with my favorite director and you, one of my favorite actors, and had to go back into a structured environment. It was just hard.
  31. ^ a b Rothkopf, Joshua (ngày 5 tháng 10 năm 2018). “Timothée Chalamet: 'I don't know how the f**k any of this happened'. TimeOut London. TimeOut Group Plc. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2020.
  32. ^ Isherwood, Charles (ngày 16 tháng 8 năm 2011). “A 17-Year-Old Beanstalk From a Wholesome '70s Family Is Eager to Go Far Out”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  33. ^ Dziemianowicz, Joe (ngày 16 tháng 8 năm 2011). 'The Talls' review: Family drama is familiar story, but excellent acting gives play extra boost”. New York Daily News. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  34. ^ Blake, Meredith (ngày 12 tháng 12 năm 2012). “SAG award nominations: Cable dramas and network sitcoms dominate”. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  35. ^ “Men, Women & Children Reviews”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2018.
  36. ^ Sneider, Jeff (ngày 15 tháng 7 năm 2013). “Christopher Nolan Casting Young 'Homeland' Actor in 'Interstellar' (Exclusive)”. TheWrap. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  37. ^ Greene, Andy (ngày 8 tháng 4 năm 2015). “Readers' Poll: The 20 Best Movies of the 2010s So Far”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2017.
  38. ^ Anand, Gautam (ngày 6 tháng 11 năm 2014). “Review: 'Interstellar' is Awe-Inspiring”. The Cinemaholic. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2017.
  39. ^ Travers, Peter (ngày 4 tháng 12 năm 2014). “10 Best Movies of 2014”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2017.
  40. ^ “Worst Friends (2014)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2017.
  41. ^ Debruge, Peter (ngày 12 tháng 2 năm 2015). “Berlin Film Review: 'One & Two'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2018.
  42. ^ Gold, Daniel M. (ngày 13 tháng 8 năm 2015). “Review: 'One & Two' Exposes Dangers of Trying to Control Teenagers”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 9 năm 2018.
  43. ^ “One & Two (2015)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2015.
  44. ^ “The Adderall Diaries (2016)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2016.
  45. ^ “Love the Coopers (2015)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 24 tháng 4 năm 2016.
  46. ^ “Timothee Chalamet”. Alumni and Friends of LaGuardia High School. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2017.
  47. ^ Rooney, David (ngày 1 tháng 5 năm 2016). “Lucille Lortel Awards: The Complete Winners List”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  48. ^ Cox, Gordon (ngày 20 tháng 4 năm 2016). “Drama League Awards Nominations: Jessica Lange, Lupita Nyong'o, Jesse Tyler Ferguson and Lots More (FULL LIST)”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 8 năm 2017.
  49. ^ Brantley, Ben (ngày 9 tháng 2 năm 2016). “Review: 'Prodigal Son,' John Patrick Shanley's Exploration of the Student He Once Was”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  50. ^ Rooney, David (ngày 9 tháng 2 năm 2016). 'Prodigal Son': Theater Review”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 8 năm 2017.
  51. ^ Farber, Stephen (ngày 14 tháng 3 năm 2016). 'Miss Stevens': SXSW Review”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2017.
  52. ^ Raup, Jordan (ngày 23 tháng 5 năm 2016). “Michael Stuhlbarg, Armie Hammer & More Leading Luca Guadagnino's 'Call Me By Your Name'. The Film Stage. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2016.
  53. ^ Vivarelli, Nick (ngày 13 tháng 2 năm 2017). “Berlinale: Luca Guadagnino on Why 'Call Me by Your Name' Strikes Such Deep Chords”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2017.
  54. ^ “Call Me By Your Name Reviews”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 1 năm 2017.
  55. ^ Greene, Steve (ngày 21 tháng 1 năm 2017). “Sundance 2017 IndieWire Critics Poll Results: Best Lead Performance”. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2017.
  56. ^ “Hollywood Reporter Film Critics Pick the 13 Best Performances of the Year”. The Hollywood Reporter. ngày 13 tháng 12 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 14 tháng 6 năm 2018.
  57. ^ Scott, A.O.; Morris, Wesley (ngày 7 tháng 12 năm 2017). “The 10 Best Actors of the Year”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2017.
  58. ^ Gettell, Oliver (ngày 27 tháng 11 năm 2017). Call Me By Your Name takes top prize at 2017 Gotham Awards”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2017.
  59. ^ “The 90th Academy Awards (2018) Nominees and Winners”. Academy of Motion Picture Arts and Sciences (AMPAS). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2018.
  60. ^ Haylock, Zoe (ngày 23 tháng 2 năm 2018). “Timothee Chalamet - Oscars: 11 of 2018's Historic Nominees”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2018.
  61. ^ Merry, Stephanie; Yahr, Emily (ngày 11 tháng 12 năm 2017). “Golden Globes nominations 2018: Complete list of nominations”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2017.
  62. ^ a b Nordyke, Kimberly (ngày 21 tháng 1 năm 2018). “SAG Awards: Complete List of Winners”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2018.
  63. ^ “BAFTA Awards: 2018 Complete Winners List”. Variety. ngày 18 tháng 2 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 2 năm 2018.
  64. ^ Evans, Greg (ngày 12 tháng 4 năm 2018). 'Hot Summer Nights' Trailer: Timothée Chalamet Gets Tangled Up In Weed”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2018.
  65. ^ “Hot Summer Nights Reviews”. Metacritic. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
  66. ^ Collins, K. Austin (ngày 26 tháng 7 năm 2018). “Timothée Chalamet Makes the Overwrought Hot Summer Nights Worthwhile”. Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 29 tháng 7 năm 2018.
  67. ^ Kohn, Eric (ngày 2 tháng 9 năm 2017). “Saoirse Ronan Scores Her Greatest Role In Greta Gerwig's Winning Directorial Debut 'Lady Bird' — Review”. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 9 năm 2017.
  68. ^ Burr, Ty (ngày 8 tháng 11 năm 2017). 'Lady Bird' a wise, funny, empathetic tale from Greta Gerwig”. The Boston Globe. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2017.
  69. ^ Pedersen, Erik (ngày 25 tháng 6 năm 2018). “Movie Academy Invites Record 928 For Membership”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 25 tháng 6 năm 2018.
  70. ^ Ford, Rebecca (ngày 6 tháng 2 năm 2017). “Sundance Breakout Timothee Chalamet Joining Steve Carell in 'Beautiful Boy' (Exclusive)”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2017.
  71. ^ “Golden Globe Nominations: Complete List”. Variety. ngày 6 tháng 12 năm 2018. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2018.
  72. ^ Vivarelli, Nick (ngày 5 tháng 5 năm 2019). “Woody Allen's 'A Rainy Day in New York' to be Released in Italy (EXCLUSIVE)”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 5 tháng 5 năm 2019.
  73. ^ Harmon, Steph (ngày 8 tháng 8 năm 2017). “Timothée Chalamet: 'I don't want to profit from my work on Woody Allen's film'. The Guardian. London. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2017.
  74. ^ Ng, David (ngày 16 tháng 9 năm 2018). “A year into #MeToo, some movies, including four Weinstein titles, are still stuck in distribution limbo”. The Los Angeles Times. Los Angeles, California: Tronc. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 9 năm 2018.
  75. ^ Pulver, Andrew (ngày 20 tháng 11 năm 2018). 'A terrible shame': Jude Law defends Woody Allen film after Amazon shelves it”. The Guardian. London, England: Guardian Media Group. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2018.
  76. ^ Wiseman, Andreas (ngày 31 tháng 5 năm 2018). “Robert Pattinson, Lily-Rose Depp, Among Cast Joining Timothée Chalamet In Netflix Pic 'The King', Cameras Roll This Week”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 6 năm 2018.
  77. ^ Sharf, Zack (ngày 25 tháng 7 năm 2019). 'The King' First Look: All Hail Timothée Chalamet in Netflix's Shakespearean Drama”. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2019.
  78. ^ Rich, Katey (ngày 8 tháng 9 năm 2018). “Timothée Chalamet Lost 20 Pounds for His Latest Role, but That Wasn't the Hard Part”. Vanity Fair. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2018.
  79. ^ Travers, Peter (ngày 23 tháng 12 năm 2019). “Greta Gerwig Delivers a 'Little Women' for a New Generation”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2020. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2020.
  80. ^ Hornaday, Ann (ngày 17 tháng 12 năm 2019). “Part Alcott, part Gerwig, 'Little Women' is a very nearly perfect film”. The Washington Post. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2020.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  81. ^ Kroll, Justin (ngày 6 tháng 12 năm 2018). “Timothee Chalamet Joins Tilda Swinton, Bill Murray in Wes Anderson's "The French Dispatch". Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2018.
  82. ^ Stolworthy, Jacob (ngày 1 tháng 2 năm 2019). “The French Dispatch: Every actor who will star in Wes Anderson's new film”. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2019.
  83. ^ Sharf, Zack (ngày 27 tháng 9 năm 2018). “Timothée Chalamet Raves About 'Dune' and Denis Villeneuve: 'If You Do a Big Movie, Make Sure It's With a Great Director'. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 9 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 9 năm 2018.
  84. ^ D'Alessandro, Anthony (ngày 16 tháng 2 năm 2019). “Warner Bros. Dates Dune For November 2020 & More”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2019.
  85. ^ Kroll, Justin (ngày 14 tháng 10 năm 2020). “Leonardo DiCaprio, Meryl Streep, Jonah Hill, Timothée Chalamet, Ariana Grande, Cate Blanchett, Others Join Jennifer Lawrence In Netflix's 'Don't Look Up' For Adam McKay”. Deadline Hollywood. Penske Media Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2020.
  86. ^ Kroll, Justin (ngày 28 tháng 1 năm 2021). “Hot Package: Luca Guadagnino Eyes New Project 'Bones & All' With Timothée Chalamet And Taylor Russell Circling Lead Roles”. Deadline Hollywood. Penske Media Corporation. Truy cập ngày 28 tháng 1 năm 2021.
  87. ^ “Timothée Chalamet to make London stage debut”. The Guardian. ngày 20 tháng 11 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 11 năm 2019.
  88. ^ “A NOTE FROM OUR ARTISTIC DIRECTOR”. Old Vic Theatre. ngày 18 tháng 3 năm 2020. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 18 tháng 3 năm 2020.
  89. ^ Stedman, Alex (ngày 6 tháng 1 năm 2020). “Timothee Chalamet to Play Bob Dylan in Film Directed by James Mangold”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 6 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2020.
  90. ^ Latanzio, Ryan (ngày 25 tháng 10 năm 2020). “Timothée Chalamet's Bob Dylan Biopic Not Happening Anytime Soon, Says DP”. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2020.
  91. ^ Rubin, Rebecca (ngày 24 tháng 5 năm 2021). “Timothee Chalamet to Play Young Willy Wonka in Warner Bros. Movie”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 24 tháng 5 năm 2021.
  92. ^ Couch, Aaron; McClintock, Pamela (26 tháng 10 năm 2021). 'Dune 2' a Go From Legendary, Warner Bros”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2021.
  93. ^ Kilday, Gregg (ngày 6 tháng 12 năm 2017). “Critics' Choice Awards: 'The Shape of Water' Leads With 14 Nominations”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 19 tháng 1 năm 2018.
  94. ^ “Winners & Nominees 2019”. www.goldenglobes.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2019.
  95. ^ “EE British Academy Film Awards Nominees in 2019”. www.bafta.org (bằng tiếng Anh). ngày 9 tháng 1 năm 2019. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2019.
  96. ^ “Announcing the Nominees for the 24th Annual Critics' Choice Awards”. Critics' Choice Awards (bằng tiếng Anh). ngày 10 tháng 12 năm 2018. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2019.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Timoth%C3%A9e_Chalamet