Wiki - KEONHACAI COPA

Single Ladies (Put a Ring on It)

"Single Ladies (Put a Ring on It)"
Bài hát của Beyoncé từ album I Am… Sasha Fierce
Phát hành12 tháng 10 năm 2008 (2008-10-12)[1][2]
Định dạngCD, tải kỹ thuật số
Thu âmTháng 4, 2008;
Phòng thu The Boom Boom Boom (Burbank, California)
Thể loạiR&B, dance-pop
Thời lượng3:15
Hãng đĩaColumbia
Sáng tácBeyoncé Knowles,[3] Christopher Stewart, Terius Nash, Kuk Harrell
Sản xuấtBeyoncé Knowles, Christopher "Tricky" Stewart, Terius "The-Dream" Nash và Thaddis Harrell

"Single Ladies (Put a Ring on It)" (tạm dịch: "Những cô gái đơn thân (Hãy đeo nhẫn vào)") là bài hát của nữ ca sĩ-nhạc sĩ người Mĩ Beyoncé Knowles, trích từ album phòng thu thứ ba của cô, I Am... Sasha Fierce (2008). Bài hát được phát hành vào ngày 12 tháng 10, năm 2008 bởi hãng thu âm Columbia với tư cách là đĩa đơn đầu tiên trích từ album bên cạnh "If I Were a Boy", cho thấy sự tương phản giữa tính cách của Knowles và nghệ danh của cô, Sasha Fierce. Lấy cảm hứng từ hôn nhân bí mật với Jay-Z vào tháng 4 năm 2008, bài hát khám phá tính không muốn cam kết của đàn ông, và đề tài đó đã thúc đẩy Knowles sáng tác "Single Ladies", "một sự thông báo công chúng duy nhất [Knowles và Jay-Z] từng làm về cuộc hôn nhân."[4]

Được sáng tác bởi Christopher Stewart, Terius "The-Dream" Nash, Thaddis "Kuk" Harrell và chính Beyoncé, mang thể loại R&Bdance-pop có ảnh hưởng từ dancehall, discobounce. Theo lời bài hát, nhân vật (là nữ) đến câu lạc bộ để ăn mừng sau khi chia tay với một người đàn ông tồi, và hắn cũng có mặt tại đó. Bài hát cùng câu nói lặp đi lặp lại, "Nếu anh thích thì cứ việc đeo nhẫn vào đi" ("If you like it then you should have put a ring on it") là dành cho người đàn ông đó. Các nhà phê bình khen ngợi ca khúc vì sự sản xuất nhẹ của "Single Ladies" và nhận thấy ca khúc có điểm tương đồng với đĩa đơn năm 2007 của Beyoncé, "Get Me Bodied". "Single Ladies" đã dành cho Knowles ba giải Grammy ở các hạng mục Ca khúc của năm, Ca khúc R&B xuất sắc nhấtTrình diễn giọng R&B nữ xuất sắc nhất. Ca khúc cũng giành được rất nhiều giải thưởng khác từ năm 2008 đến 2010, và được mệnh danh là ca khúc của năm 2008 bởi các phương tiện truyền thông gồm MTV News, Rolling StoneTime. Ngoài ra "Single Ladies" cũng có mặt trong danh sách các ca khúc hay nhất thập niên 2000 của nhiều giới phê bình.

"Single Ladies" đạt vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Mỹ và được cấp chứng nhận bốn lần đĩa bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA) với doanh số hơn 5 triệu bản tải kỹ thuật số vào tháng 10 năm 2012. Ca khúc cũng đạt vị trí số một tại Brazil và lọt vào tốp mười bảng xếp hạng của nhiều quốc gia gồm Úc, Canada, Ireland và Liên hiệp Anh. Đến tháng 11 năm 2009, "Single Ladies" đã tiêu thụ hơn 6,1 triệu bản toàn thế giới, trở thành một trong những đĩa đơn bán chạy nhất thế giới.[5]

Đạo diễn bởi Jake Nava, video âm nhạc cho "Single Ladies" được quay với khung cảnh trắng-đen. Video có vũ đạo của J-Setting vốn có ảnh hưởng từ ca khúc "Mexican Breakfast", một vũ đạo thường nhật từ năm 1969 bởi Bob Fosse. Video đã được biến tấu và bắt chước toàn thế giới, và vũ đạo của "Single Ladies" trở thành "điệu nhảy đầu tiên gây nên cơn sốt" trong kỷ nguyên Internet.[6] Điệu nhảy quen thuộc này lần đầu được biến tấu vào ngày 15 tháng 11 năm 2008 trên Saturday Night Live (SNL). Video âm nhạc "Single Ladies" đã giành được vài giải thưởng, trong đó có Giải Video âm nhạc của MTV (MTV VMA) cho Video của năm năm 2009. Beyoncé đã trình diễn trực tiếp ca khúc nhiều lần trên các chương trình, lễ trao giải và trong chuyến lưu diễn I Am... World Tour của cô. Các nghệ sĩ gồm Katy Perry, Alan Pownall, Liza MinnelliSara Bareilles đã cover lại "Single Ladies".

Thực hiện[sửa | sửa mã nguồn]

The-Dream (hình)Christopher Stewart thực hiện việc sản xuất "Single Ladies".

"Single Ladies (Put a Ring on It)" được sáng tác bởi Beyoncé Knowles, Terius Nash, Thaddis Harrell, Christopher Stewart và được sản xuất bởi The-Dream cùng Christopher Stewart. Knowles thu âm bài hát vào tháng 4 năm 2008 tại phòng thu The Boom Boom Boom ở Burbank, California và được phối bởi Jaycen Joshua cùng Dave Pensado, với phần trợ lý từ Randy Urbanski & Andrew Wuepper.[7] The-Dream đã sáng tác "Single Ladies" sau hôn nhân bí mật giữa Beyoncé với Jay-Z vào tháng 4 năm 2008, tức là cùng thời gian khi Knowles đang thu âm bài hát.[4][8] Stewart đã bình luận "Single Ladies" là "thông báo công chúng duy nhất [Knowles và Jay-Z] từng làm về cuộc hôn nhân."[4] Hôn nhân của Beyoncé và Jay-Z đã truyền cảm hứng cho The-Dream sáng tác một bài hát về một vấn đề có ảnh hưởng tới mối quan hệ của nhiều người: sự sợ hãi hoặc thiếu quyết đoán của đàn ông.[4] Trong một cuộc phỏng vấn với tạp chí Billboard, Beyoncé nói rằng cô ấy đã bị cuốn hút bởi bài hát vì sự phổ biến của vấn đề này, một vấn đề mà "mọi người đều hứng thú về nó và muốn bàn luận về nó và tranh cãi."[9] Knowles cũng khẳng định rằng mặc dù "Single Ladies" là một bản uptempo sôi động nhưng bài hát lại nói về điều mà phụ nữ trải nghiệm hằng ngày.[9]

Trong "Single Ladies", Knowles tự hóa mình thành nghệ danh cô sử dụng lúc đó là Sasha Fierce, mà nghệ danh này có trong phần đĩa thứ hai của album I Am... Sasha Fierce (2008).[10] "Single Ladies" được phát hành đồng thời với "If I Were a Boy" với vai trò là đĩa đơn đầu tiên trích từ album. Với vai trò chủ đạo như thế, họ (những người thực hiện) muốn định nghĩa sự tương phản trong hai con người của Beyoncé.[11] Điều này làm tăng lên chủ đề của album, một đĩa là nhạc ballad nhẹ nhàng và một bản là nhạc uptempo sôi động trong hai đĩa riêng biệt của I Am... Sasha Fierce.[12] "Single Ladies" ra mắt trên đài radio của Mỹ ngày 8 tháng 10 năm 2008[13] và trên đài mainstream urban cùng ngày tại đài Power 105.1 của New York.[14] Cả hai đĩa đơn, "If I Were a Boy" và "Single Ladies" đều được thêm vào danh sách phát của đài rhythmic đương đại ngày 12 tháng 10 năm 2008;[15] "Single Ladies" còn được gửi tới danh sách phát của đài urban đương đại cùng ngày,[16] trong khi "If I Were a Boy" được phân loại cho đài hit đương đại.[17] Cả hai ca khúc đều được phát hành dưới dạng đĩa đơn đôi mặt A vào ngày 7 tháng 11 năm 2008 tại Úc,[18] New Zealand[19] và Đức.[20] Các bản phối lại nhạc dance của ca khúc được phát hành tại Mỹ ngày 10 tháng 2 năm 2009[21] và tại châu Âu ngày 16 tháng 2 năm 2009.[22] Ban đầu, "Single Ladies" không có dự định sẽ được phát hành tại Liên hiệp Anh dưới dạng đĩa đơn, nhưng bài hát trở nên nổi tiếng và lọt vào tốp 10 của UK Singles Chart nên điều này đã dẫn đến "Single Ladies" được phát hành dưới dạng tải kỹ thuật số.[23] Ngày 16 tháng 2 năm 2009, bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn CD và một EP phối lại kỹ thuật số được phát hành trên mạng dưới dạng tải về nhạc số.[24][25]

Sáng tác và ý nghĩa ca từ[sửa | sửa mã nguồn]

"Single Ladies (Put a Ring on It)" là một bản nhạc upbeat mang thể loại dance-popR&B và chịu ảnh hưởng từ các thể loại dancehall, discobounce.[11][26][27][28][29] Bài hát được viết ở nhịp độ trung bình[30] và có thêm phần vỗ tay staccato dựa trên nền nhạc bounce,[31][32] tiếng beep của Mã Morse,[29] sự tăng dần của tiếng huýt sáo trên nền nhạc[33] và một nhịp organ mạnh mẽ.[32] Nhạc cụ sử dụng trong "Single Ladies" gồm có một trống bass,[34] một nhạc cụ có phím[35] và bộ tổng hợp vang đều thỉnh thoảng to lên hoặc hạ xuống; một người bình luận, Sarah Liss từ CBC News, cảm thấy rằng sự sắp xếp của các nhạc cụ đến một cách ngạc nhiên rất nhẹ chứ không nặng.[32] Theo tờ nhạc của "Single Ladies" được xuất bản bởi Sony/ATV Music Publishing, ca khúc được viết trên hợp âm E trưởng và có nhịp độ trung bình vừa phải là 96 nhịp/phút. Giọng hát của Beyoncé dao động từ nốt thấp F#3 tới nốt cao D5.[30] Sự sắp xếp hòa âm của "Single Ladies" bắt đầu từ hợp âm E trưởng trong đoạn đầu, và tiếp nối là Bdim–C–Bdim–Am trong phần điệp khúc.[30] J. Freedom du Lac từ tờ báo The Washington Post nhận thấy bài hát kết hợp với "giọng hát nền sôi nổi."[36]

"Single Ladies" về phần nhạc lý có sự tương đồng với đĩa đơn năm 2007 của Beyoncé, "Get Me Bodied"; Andy Kellman từ trang mạng AllMusic gọi "Single Ladies" là "sự trở lại càn quét của bài hát [Get Me Bodied]".[37] Stewart và Harrell khi được phỏng vấn với tạp chí People đã nói rằng giai điệu tương đồng giữa hai bài hát chính là "những gì mà [Knowles] yêu cầu."[4] Ann Powers của tờ báo Los Angeles Times nhận thấy chủ đề khích lệ phụ nữ của bài hát và như là một sự mở rộng của đĩa đơn "Irreplaceable" năm 2006[38] và Daniel Brockman của tờ báo The Phoenix chú ý sự sử dụng của "đại từ không rõ ràng" như từ "it" ("nó") trong đĩa đơn năm 2005 của Beyoncé "Check On It".[39] Liss bình luận rằng nhịp điệu của "Single Ladies" làm gợi lại điệu nhảy ủng (gumboot dancing) của châu Phi và nhảy dây đôi (Double Dutch) ở sân trường,[32] một bình luận được chia sẻ bởi Douglas Wolk từ tạp chí Time.[40] Trish Crawford từ Toronto Star nói rằng "Single Ladies" là "một bài hát mạnh mẽ để khích lệ phụ nữ"[6] và các nhà phê bình khác cũng để ý sự cuốn hút những người hâm mộ là phụ nữ độc lập của Beyoncé[38][41] như trong bài hát, Knowles muốn động viên phụ nữ nên từ bỏ những người bạn trai tồi của họ.[42]

Trong "Single Ladies", Beyoncé đã nhấn mạnh nghệ danh mạnh mẽ và gợi cảm Sasha Fierce.[26][43][44] Cô ấy thể hiện nhiều thái độ khác nhau trong giọng hát của cô ấy, Nick Levine từ Digital Spy nhận xét.[23] Lặp lại ý kiến của Nick, Liss nói rằng giọng hát của Knowles nghe "vui sướng một cách tự nhiên".[32] Phần ca từ phản ánh tình trạng sau khi chia tay.[45] Kết hợp với các âm thanh thuộc tính robot, những dòng đầu của "Single Ladies" là các âm thanh rời rạc;[46] câu hát của Knowles, "Tất cả những phụ nữ đơn thân" ("All the single ladies") và các giọng hát nền vang lên đều nhau mỗi lần.[38] Trong lời nhạc đầu tiên, Beyoncé thuật lại sự kết thục hiện tại của một mối quan hệ tồi sau khi "cô ấy khóc trong ba năm ròng."[42][47] Cô đòi lại quyền được làm điệu, được vui vẻ và tìm một người yêu mới mà tốt hơn người hiện tại.[48] Beyoncé ra ngoài và ăn mừng với các bạn của cô trong một câu lạc bộ và cô tìm thấy một người yêu mới, tuy nhiên người cũ cũng có mặt ở đó.[38] Sau đó Beyoncé hát đoạn điệp khúc với phần hợp âm thứ[44] vài đoạn hook,[49] "Nếu anh thích thì cứ việc đeo nhẫn vào đi... Oh, oh, oh" ("If you like it then you should have put a ring on it"... Oh, oh, oh").[45][50]

Trong phần lời thứ hai, Beyoncé khuyến khích phụ nữ nên đá bạn trai của họ nếu họ không cầu hôn[51] và kể với người cũ của họ là, nếu anh ấy không có nỗ lực để làm những điều thường xuyên hơn nếu anh có cơ hội, thì anh ta sẽ không có lý do nào để phàn nàn là giờ cô ấy lại có một người khác.[52] Trong đoạn nối, Beyoncé khẳng định những gì mà cô muốn ở người bạn trai mới, "như một hoàng tử và ôm ấp cô ấy, đưa cô đến một định mệnh, tới vô cực và xa hơn nữa" khi "Hoàng tử Quyến rũ đang đứng đó như thể là đường dẫn thứ hai tới một câu chuyện lãng mạn."[38] Tới phần kết của phần đoạn đó, Beyoncé thể hiện giọng hát tích cực hơn[26] và sử dụng một quãng giữa 8 khi cô hát "Và như một bóng ma tôi sẽ biến mất" ("And like a ghost I'll be gone").[52] Khi Beyoncé hát lại đoạn điệp khúc lần thứ ba và lần cuối, giọng của cô ấy ở khắp mọi nơi trong sự dàn dựng của âm nhạc, theo lời bình của Frannie Kelley từ NPR.[34] Một âm thanh điện tử tiếp tục kéo dài cho tới khi bài hát kết thúc.[40]

Đánh giá chuyên môn[sửa | sửa mã nguồn]

Beyoncé biểu diễn "Single Ladies" trong chuyến lưu diễn I Am... Tour năm 2009.

"Single Ladies (Put a Ring on It)" nhận được các đánh giá tích cực từ phía phê bình nhạc, họ khen ngợi sự sản xuất của ca khúc. Nick Levine từ Digital Spy khen ngợi hầu hết về nhịp điệu bài hát, mà theo anh thì nó "không thể bỏ đi được."[23] Michelangelo Matos từ The A.V. Club viết rằng bài hát "tuyệt vời, với sự sản xuất sôi nổi, đoạn hook hay, và nhịp điệu cho cả tuần."[53] Ann Powers của tờ báo Los Angeles Times cũng ấn tượng với sự sản xuất tổng thể của "Single Ladies", đặc biệt là đoạn điệp khúc, nói rằng "Hơn cả hầu hết các nữ ca sĩ, Beyoncé đã hiểu được về nghệ thuật hiện đại của hát có nhịp điệu, và đây là một ví dụ điển hình."[38] Fraser McAlpine từ BBC Online coi "Single Ladies" là ca khúc hay nhất của Beyoncé kể từ ca khúc "Ring the Alarm" năm 2006 của cô và khen ngợi đoạn điệp khúc, mô tả rằng "thật cuốn hút đến đáng kinh ngạc là nó cung cấp một nền tảng vững chắc một cách ngạc nhiên cho cả bài hát."[52] Alexis Petridis từ The Guardian ca ngợi về không khí có tính đe dọa của "Single Ladies" được tạo nên bởi hòa âm thứ.[44] Daniel Brockman của The Phoenix khen ngợi về việc sử dụng từ "nó" ("it") trong bài hát, và viết rằng kỹ thuật này "tổng hợp lại những tính cách âm nhạc được phân chia ra còn hiệu quả hơn cả hai đĩa [của album] được quảng cáo chia ra thành nhân cách khác nhau."[39]

Darryl Sterdan của Jam! nói rằng bài hát xứng đáng trở thành đĩa đơn, và nói rằng bài hát là "một tông thật sự nghe giống như số của Beyoncé."[49] Sarah Liss của CBC News viết rằng "Single Ladies" thể hiện Knowles ở trạng thái tốt nhất, mô tả bài hát là "một bài hát dance-pop gây nghiện lập tức [và] một bản bounce hạng lông."[32] Sau đó cô ấy cũng bình luận thêm rằng thật dễ chịu khi nghe một giọng hát mà "thay đổi thanh sắc một cách tự nhiên, một giọng với những vết nứt và khe hở thật sự (tuy nhiên rất nhẹ)" và tương phản với "nạn sử dụng auto-tune dường như được sử dụng rất nhiều bởi các đồng nghiệp nhạc pop đương đại khác."[32] Douglas Wolf của tạp chí Time thêm vào rằng "Single Ladies" là một bài hát được hát cùng mà cho phép Beyoncé biểu lộ lòng ham thích và "một phô bày được tập trung, được khen ngợi của một cá nhân và đại diện cho những bàn tay không có nhẫn trên đó."[32] Sarah Frere-Jones của The New Yorkers viết rằng bài hát tổng hợp lộn xộn các cảm xúc và nghe như là "không quả quyết nhưng không bao giờ trở nên buồn chán."[33] Anh kết luận rằng "Single Ladies" nghe có vẻ hân hoan là chính và giọng hát của Knowles rất thuần khiết và yếu ớt.[33] Andy Kellman của AllMusic và Jessica Suarez của Paste để ý rằng bài hát là một trong những điểm nhấn của I Am... Sasha Fierce và nhận thấy những điểm giống với "Get Me Bodied".[29][37]

Những người đánh giá khen ngợi về nhịp điệu nhạc dance của bài hát. Colin McGuire của PopMatters ca ngợi "Single Ladies" là một trong những bài hát hay nhất của Beyoncé.[27] Spence D. của IGN Music mô tả bài hát như "một tư cách Carribbe và điệu lắc hân hoan mà ngay cả những người ù lì nhảy múa xoay tròn vui vẻ."[54] Joey Guerra của Houston Chronicle viết rằng "Single Ladies" là một ca khúc "khiến lắc mông trong câu lạc bộ" giống như "Check On It".[26] Leah Greenblatt của Entertainment Weekly viết rằng bài hát là một bản "ham vui, bước nhảy lai giữa những nụ hôn trữ tình và điệu nhảy dây sôi động."[31] Mô tả bài hát như một "bước nhảy chiến thắng", Adam Mazmanian của The Washington Times viết rằng "Single Ladies" được viết để làm cho phụ nữ lên sàn nhảy khi Beyoncé hát với "một thách thức, giọng hát độc lập."[28] Mặc dù hầu hết được đánh giá cao, tuy nhiên, một vài nhà phê bình không thấy ấn tượng với "Single Ladies". Mariel Concepcion của tạp chí Billboard gọi bài hát là "giá tiêu chuẩn của một tiếng thét rộn rã."[55] Adam Mattera của The Observer nhận thấy "Single Ladies" và "Diva" như nguồn cảm hứng cho các đàn ông chuyển giới, mặc dù chúng có thể để lại sự nhầm lẫn."[41] Sal Cinquemani từ Slant Magazine chỉ trích mâu thuẫn của phần ca từ, mô tả nó như là "tàn dư" từ B'Day.[56]

Video âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Beyoncé nhận giải MTV VMA cho hạng mục "Video của năm" với "Single Ladies".

Thực hiện và tổng quan[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc cho ca khúc "Single Ladies" được quay ngay sau video "If I Were a Boy"[43] nhưng video này lại nhận được sự chú ý ít hơn về "kinh phí cao và nhiều hồ sơ hơn" so với "If I Were a Boy".[57] Cả hai video đều được quay trong nền cảnh trắng-đen tại Thành phố New York và đều được đạo diễn bởi Jake Nava.[57] Vũ đạo cho "Single Ladies" được thực hiện bởi Frank Gatson và JaQuel Knight[4] và được kết hợp với vũ đạo của J-Setting.[43] Hai video đều được ra mắt trên Total Request Live của MTV vào ngày 13 tháng 10 năm 2008[11] để củng cố thêm cho hai cá nhân tương phản của Beyoncé.[43] Hai video được phát hành trước công chúng cùng ngày và sau đó được bao chứa trong album phối lại của Beyoncé, Above and Beyoncé[58] và trong phiên bản đĩa bạch kim cao cấp của I Am... Sasha Fierce.[59] Knowles nói với Simon Vozick-Levinson của Entertainment Weekly rằng cảm hứng cho video là một điệu nhảy năm 1969 của Bob Fosse trong "Mexican Breakfast" trên The Ed Sullivan Show, và người nhảy điệu nhảy đó là vợ ông cùng hai người phụ nữ khác.[60][61] Beyoncé nói rằng cô muốn làm một video có điệu nhảy như thế nên vũ đạo của "Single Ladies" có cảm hứng từ "Mexican Breakfast" mà theo cô kể lại:[43]

Trong video "Single Ladies", Beyoncé thể hiện một con người cuốn hút và gợi cảm hơn với nghệ danh "Sasha Fierce". Nó thể hiện Knowles cùng hai vũ công khác (Knowles đứng ở giữa hai vũ công) mặc áo bó sát ngắn với giày cao gót. Trong suốt video, cả ba nhảy múa theo vũ đạo đã sắp đặt, lắc hông, đá chân trên nền đen-trắng.

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Mặc dù video của "Single Ladies" là video ít tốn kinh phí nhất và thực hiện nhanh nhất của Beyoncé, nó lại được các nhà phê bình đánh giá rất tích cực. Điệu nhảy của "Single Ladies" trở thành một cơn sốt mạng[4] và là "điệu nhảy đầu tiên gây nên cơn sốt trong kỷ nguyên Internet."[6] Video đã giúp Beyoncé có thêm vài giải thưởng, bao gồm ba Giải MTV VMAs ở các hạng mục "Video của năm", "Vũ đạo xuất sắc nhất" và "Chỉnh sửa xuất sắc nhất" năm 2009.[62] "Single Ladies" còn chiến thắng một Giải MTV EMA ở hạng mục "Video xuất sắc nhất".[63] Video được các độc giả của tạp chí Billboard bầu chọn là video vĩ đại thứ năm trong thập niên 2000[64] và các tạp chí khác cũng bầu chọn video là một trong những video vĩ đại nhất thập niên.[65]

Sự cố Kanye West[sửa | sửa mã nguồn]

Video âm nhạc của "Single Ladies" được đề cử chín hạng mục ở MTV VMA năm 2009 và đã thắng ba hạng mục "Video của năm", "Vũ đạo xuất sắc nhất" và "Chỉnh sửa xuất sắc nhất". Trong số chín hạng mục thì có một hạng mục là "Video nữ xuất sắc nhất" đã bị video "You Belong with Me" của Taylor Swift giành giải. Tuy nhiên, khi Taylor đang phát biểu khi lên nhận giải thì bị Kanye West "cướp" micro và nói "Này, Taylor! Tôi rất vui cho cô và tôi sẽ để cô nói xong, nhưng Beyoncé mới là người xứng đáng có video vĩ đại nhất!" để ám chỉ tới "Single Ladies" của Knowles. Ngay lập tức cả khán đài đều bắt đầu la ó, Taylor bị một phen ngỡ ngàng và tất cả các máy quay đều chĩa vào Beyoncé khi cô đang rất sốc.[66] Quá giận dữ, West lỡ đưa ngón tay giữa về phía khán đài (ám chỉ câu "F*ck You!").[67][68] Sau đó, khi Knowles lên nhận giải "Video của năm", Beyoncé đã bày tỏ niềm vui "Thật là một thời khắc tuyệt vời" và sau đó, cô đã mời Taylor Swift lên tiếp tục phần phát biểu của mình đã bị Kanye West cướp mất.[69][70] Hành động của Beyoncé đã được ca ngợi rất nhiều, còn hành động của Kanye West thì bị chỉ trích nặng đến nỗi ngay cả tổng thống Barack Obama gọi anh là "thằng ngốc" ("jackass").[71]

Biểu diễn trực tiếp[sửa | sửa mã nguồn]

Beyoncé biểu diễn "Single Ladies" năm 2011 trên Good Morning America.

Beyoncé biểu diễn "Single Ladies" lần đầu tiên trong một buổi hòa nhạc tổ chức bởi đài Power 105.1 tại New York ngày 29 tháng 10 năm 2008.[72] Sau đó, Beyoncé tiếp tục biểu diễn bài hát trên các chương trình truyền hình, giải thưởng và tại các buổi hòa nhạc. Tại Giải Âm nhạc thế giới 2008 tổ chức tại Monaco, cô biểu diễn ca khúc với găng tay thuộc tính robot và cô đã chỉ vào găng tay khi hát phần điệp khúc.[73] Sau đó, Knowles biểu diễn lại "Single Ladies" trên chương trình Saturday Night Live (SNL) ngày 15 tháng 11 năm 2008.[74] Trong tối đó, Beyoncé cũng được mời trong phiên bản nhại lại của video âm nhạc với Justin Timberlake, Bobby MoynihanAdam Samberg giả gái.[75] Ngày 16 tháng 11 năm 2008, Beyoncé đã biểu diễn phần kết hợp của ba bài hát "Crazy in Love", "If I Were a Boy" và "Single Ladies".[76] "Single Ladies" cũng đã được Beyoncé biểu diễn vào ngày 18 tháng 11 năm 2008 trên 106 & Park,[77] ngày 23 tháng 11 tại Giải Âm nhạc Mỹ 2008,[78] ngày 25 tháng 11 năm 2008 trên The Ellen DeGeneres Show[79] và ngày 26 tháng 11 ở Rockefeller Plaza cho chương trình Today của đài NBC.[80] Năm 2009, "Single Ladies" được Beyoncé biểu diễn trong chuyến lưu diễn hòa nhạc I Am... Tour và được bao gồm trong I Am... Yours. Vào 1 tháng 7 năm 2011, Beyoncé tiếp tục trình diễn "Single Ladies" trên chương trình Good Morning America.[81][82] Vào tháng 8 năm 2011, Beyoncé đã trình diễn lại bài hát ở Vũ trường Roseland tại Thành phố New York trước 3.500 người.[83][84] Vào ngày 3 tháng 2 năm 2013, tại hiệp giữa Super Bowl lần thứ XLVII, Beyoncé đã trình diễn lại "Single Ladies" cùng với hai thành viên cùng nhóm nhạc cũ Destiny's Child.[85]

Danh sách ca khúc và định dạng[sửa | sửa mã nguồn]

Xếp hạng và tiêu thụ[sửa | sửa mã nguồn]

Tiêu thụ[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc giaNhà cung cấpChứng nhận
ÚcARIA 3× Bạch kim[136]
CanadaCRIA 2× Bạch kim[137]
 Bạch kim (chuông)[137]
 Bạch kim (MV)[137]
MexicoAMPROFONVàng Vàng[138]
New ZealandRIANZ Bạch kim[139]
Tây Ban NhaPROMUSICAE Bạch kim[140]
Liên hiệp AnhBPIVàng Vàng[141]
MỹRIAA Bạch kim[142]
 Bạch kim (chuông)[143]

Thành công trên các bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Tiền nhiệm
"Miss Independent" của Ne-Yo
Đĩa đơn quán quân Billboard Hot R&B/Hip-Hop Songs (Mỹ)
Tháng 11 ngày 29, 2008 - Tháng 2 ngày 14, 2009
Kế nhiệm
"Blame It" của Jamie Foxx hợp tác với T-Pain
Tiền nhiệm
"Live Your Life" của T.I. hợp tác với Rihanna
Đĩa đơn quán quân ’’Billboard’’ Hot 100 (Mỹ)
Tháng 12 ngày 13, 20 (lần 1)
Tháng 12 ngày 27, 2008 - Tháng 1 ngày 10, 2009 (lần 2)
Kế nhiệm
"Live Your Life" của T.I. hợp tác với Rihanna
Tiền nhiệm
"Miles Away" của Madonna
Đĩa đơn quán quân Billboard Hot Dance Airplay (Mỹ)
Tháng 1 ngày 10, 2009 - Tháng 1 ngày 24, 2009
Kế nhiệm
"Imagination" của Jes
Tiền nhiệm
"I Hate This Part" của Pussycat Dolls
Đĩa đơn quán quân Billboard Hot Dance Club Play (Mỹ)
Tháng 1 ngày 17, 2009
Kế nhiệm
"Human" của The Killers
Tiền nhiệm
"If I Were a Boy" của Beyoncé
Đĩa đơn quán quân UK R&B Chart
Tháng 1 ngày 18, 2009 - Tháng 2 ngày 8, 2009
Kế nhiệm
"Crack a Bottle" của Eminem, Dr. Dre50 Cent

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Levine, Nick (ngày 17 tháng 1 năm 2009). “Music - Single Reviews - Beyoncé: Single Ladies”. DigitalSpy. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2009.
  2. ^ “Beyoncé Knowles Single Ladies (Put a Ring on It) UK 5" CD Single (459975)”. EIL. ngày 22 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2009.
  3. ^ Single Ladies (Put a Ring on It) Lưu trữ 2009-05-01 tại Wayback Machine. ASCAP. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2009
  4. ^ a b c d e f g Herndon, Jessica (ngày 1 tháng 1 năm 2010). “Inside Story: The Making of Beyoncé's 'Single Ladies'. People. Time Inc. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  5. ^ “Digital Music Sales Around The World” (PDF). Liên đoàn Công nghiệp ghi âm quốc tế. ngày 21 tháng 1 năm 2010. tr. 10. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 5 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  6. ^ a b c Crawford, Trish (23 tháng 1 năm 2009). "Beyoncé's single an anthem for women". Toronto Star (Star Media Group): L1, L4. Lưu trữ từ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2011.
  7. ^ Ghi chú đĩa hai của album I Am... Sasha Fierce của Beyoncé Knowles. Columbia Records [liner notes]. (2008).
  8. ^ Helling, Steve (ngày 22 tháng 4 năm 2008). “Beyoncé and Jay-Z File Signed Marriage License”. People. Time Inc. Truy cập ngày 23 tháng 4 năm 2008.
  9. ^ a b Mitchell, Gail (ngày 2 tháng 10 năm 2009). “Beyonce: The Billboard Q&A”. Billboard. Nielsen Business Media. Truy cập ngày 23 tháng 12 năm 2010.
  10. ^ Montgomery, James (ngày 15 tháng 12 năm 2008). “Britney? Beyonce? Who Is MTV News' Woman Of The Year? The Countdown Begins Today!”. MTV News. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  11. ^ a b c Vineyard, Jennifer (13 tháng 10 năm 2008). "Beyonce's Very Different New Videos: One Has Dancing, One Has Relationship Problems". MTV. Truy cập 20 tháng 3 năm 2013.
  12. ^ Vineyard, Jennifer (ngày 23 tháng 10 năm 2008). “Beyonce Album Preview: I Am... Sasha Fierce Shines Light On B's Alter Ego”. MTV News. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2011.
  13. ^ Vineyard, Jennifer (ngày 8 tháng 10 năm 2008). “Beyoncé Releases Two Tracks From I Am..., Inspired By Jay-Z And Etta James”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2011.
  14. ^ Tapper, Christina (ngày 8 tháng 10 năm 2008). “Beyoncé's Double Debut”. People. Time Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  15. ^ "[Going for Adds - Rhythmic]". Radio & Records. VNU Media. 12 tháng 10 năm 2008. Truy cập 20 tháng 3 năm 2013.
  16. ^ "Going for Adds - Urban Lưu trữ 2013-05-28 tại Wayback Machine". Radio & Records. VNU Media. 12 tháng 10 năm 2008. Truy cập 20 tháng 3 năm 2013.
  17. ^ “Available for Airplay”. FMQB. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 3 tháng 7 năm 2011.
  18. ^ a b "[If I Were a Boy - Single]". iTunes. Apple Inc. Truy cập 20 tháng 3 năm 2013.
  19. ^ a b "If I Were a Boy - Single". iTunes. Apple Inc. Truy cập 20 tháng 3 năm 2013.
  20. ^ a b “If I Were a Boy [Single]” (bằng tiếng Đức). Amazon.de. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  21. ^ a b “Single Ladies (Put A Ring On It) Dance Remixes”. Amazon.com. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  22. ^ "Single Ladies - Dance Remixes - EP". iTunes. Apple Inc. Truy cập 20 tháng 3 năm 2013.
  23. ^ a b c Levine, Nick (ngày 16 tháng 2 năm 2009). “Beyoncé: 'Single Ladies'. Digital Spy. Hachette Filipacchi UK Ltd. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  24. ^ a b “Single Ladies (Put A Ring On It) – Dance Remixes”. Amazon.co.uk. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  25. ^ “Single Ladies (Put a Ring on It) [Single]”. Amazon.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2013.
  26. ^ a b c d Guerra, Joey (ngày 17 tháng 11 năm 2008). “Album Review: Beyonce I Am... Sasha Fierce”. Houston Chronicle. Hearst Corporation. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2011.
  27. ^ a b McGuire, Colin (ngày 6 tháng 2 năm 2009). “Beyoncé: I Am... Sasha Fierce”. PopMatters. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  28. ^ a b Mazmanian, Adam (ngày 18 tháng 11 năm 2008). “Beyonce's two faces”. The Washington Times. News World Media Development. Truy cập ngày 25 tháng 12 năm 2011.
  29. ^ a b c Suarez, Jessica (ngày 5 tháng 1 năm 2009). “Beyonce: I Am... Sasha Fierce”. Paste. Wolfgang's Vault. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2011.
  30. ^ a b c "Single Ladies (Put a Ring on It) Sheet Music". Musicnotes.com. Sony/ATV Music Publishing
  31. ^ a b Greenblatt, Leah (ngày 5 tháng 11 năm 2008). “I Am...Sasha Fierce (2008)”. Entertainment Weekly. Time Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  32. ^ a b c d e f g h Liss, Sarah (ngày 14 tháng 10 năm 2008). “First listen: Beyonce's Single Ladies (Put A Ring On It)”. CBC News. CBC Inc. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 12 năm 2011.
  33. ^ a b c Frere-Jones, Sasha (ngày 20 tháng 4 năm 2009). “Living on the Radio”. The New Yorker. Condé Nast Publications. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 1 năm 2013. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2011.
  34. ^ a b Kelley, Frannie (23 tháng 11 năm 2009). "The Decade In Music: Beyonce's Single Ladies (2009)". NPR. Truy cập 20 tháng 3 năm 2013.
  35. ^ Soderberg, Brandon (19 tháng 11 năm 2008). "Music Video Round-Up: Beyonce, The Sea & Cake, & Glen Campbell Lưu trữ 2013-02-02 tại Archive.today". Slant Magazine. Truy cập 20 tháng 3 năm 2013.
  36. ^ Freedom du Lac, J. (ngày 18 tháng 11 năm 2008). “Beyoncé's More Fun When She's 'Fierce'. The Washington Post. The Washington Post Company. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2011.
  37. ^ a b Kellman, Andy. “I Am...Sasha Fierce”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  38. ^ a b c d e f Powers, Ann (8 tháng 10 năm 2008). "Snap Judgement: Beyoncé's 'If I Were a Boy' and 'Single Ladies'". Los Angeles Times. Truy cập 20 tháng 3 năm 2013.
  39. ^ a b Brockman, Daniel (ngày 2 tháng 12 năm 2008). “Beyonce – I Am...Sasha Fierce”. The Phoenix. Phoenix Media/Communications Group. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  40. ^ a b Wolk, Douglas (24 tháng 10 năm 2011). "[Single Ladies (Put a Ring on It) - All Time 100 Songs]". Time. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  41. ^ a b Mattera, Adam (ngày 9 tháng 11 năm 2008). “Review: I Am Sasha Fierce”. The Observer. Guardian Media Group. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  42. ^ a b Johnson, Billy (23 tháng 12 năm 2009). "Beyoncé, Lady Gaga Or Shakira: Who Has The Best Dance Video?". Yahoo!. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  43. ^ a b c d e Cairns, Dan (ngày 10 tháng 5 năm 2009). “YouTube plays part in Beyoncé Knowles' life”. The Times. News Corporation. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  44. ^ a b c Petridis, Alexis (ngày 14 tháng 11 năm 2008). “Pop review: Beyoncé, I Am... Sasha Fierce”. The Guardian. Guardian Media Group. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  45. ^ a b Kot, Greg (ngày 16 tháng 11 năm 2008). 16 tháng 11 năm 2008/news/0811140321_1_disc-fierce-previous-album “Beyonce's 'Sasha Fierce' places blame for women's pain on men” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). Chicago Tribune. Tribune Company. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2011.[liên kết hỏng]
  46. ^ Brew-Hammond, Nana Ekua (ngày 17 tháng 12 năm 2008). 17 tháng 12 năm 2008/music/on-the-method-behind-beyonc-eacute-s-multiple-personality-madness/ “On the Method Behind Beyoncé's Multiple-Personality Madness” Kiểm tra giá trị |url= (trợ giúp). The Village Voice. Village Voice Media. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 27 tháng 9 năm 2020.[liên kết hỏng]
  47. ^ Suddath, Claire (ngày 28 tháng 6 năm 2011). “Album Review: Beyoncé's '4' Muddles Its Message”. Time. Time Inc. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2011.
  48. ^ The A.V. Club Staff (ngày 30 tháng 4 năm 2010). “Love the song, hate the lyrics”. The A.V. Club. The Onion, Inc. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2011.
  49. ^ a b Sterdan, Darryl (ngày 18 tháng 11 năm 2008). “Album Review: Beyonce I Am... Sasha Fierce”. Jam!. Sun Media. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  50. ^ Maddux, Rachael (ngày 22 tháng 11 năm 2008). “Seven Best Things About Beyonce's 'Single Ladies (Put a Ring on It)'. Paste. Wolfgang's Vault. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2011.
  51. ^ “Princess Charming: Beyonce channels the spirit of Adam Ant for head-banging World Music Awards performance”. Daily Mail. Associated Newspapers Ltd. ngày 17 tháng 12 năm 2008. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  52. ^ a b c McAlpine, Fraser (ngày 2 tháng 2 năm 2009). “Beyonce - 'Single Ladies (Put A Ring On It)'. BBC Online. BBC. Truy cập ngày 9 tháng 12 năm 2011.
  53. ^ Matos, Michaelangelo (ngày 17 tháng 11 năm 2008). “I Am... Sasha Fierce”. The A.V. Club. The Onion, Inc. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  54. ^ Spence, D. (ngày 22 tháng 11 năm 2008). “Beyonce – I Am... Sasha Fierce: The two sides of Ms. Knowles fight for your attention”. IGN. News Corporation. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 1 năm 2011.
  55. ^ Taylor, Chuck (ngày 17 tháng 10 năm 2008). “Billboard singles reviews: Beyonce, Britney”. Billboard. Nielsen Business Media. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  56. ^ Cinquemani, Sal (ngày 12 tháng 11 năm 2008). “I Am... Sasha Fierce”. Slant Magazine. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  57. ^ a b Montgomery, James (12 tháng 9 năm 2009). "Beyonce's VMA-Nominated 'Single Ladies' Video Began As An Afterthought". MTV. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  58. ^ “Beyoncé to Release Above and Beyoncé – Video Collection & Dance Mixes!” (Thông cáo báo chí). Music World Entertainment/Columbia Records. ngày 26 tháng 5 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  59. ^ “I Am...Sasha Fierce (Platinum Edition) (Incl. Bonus Tracks and Music Videos)”. Amazon.com. Truy cập ngày 25 tháng 1 năm 2011.
  60. ^ Vozick-Levinson, Simon (ngày 10 tháng 3 năm 2009). “Beyoncé talks world tour, new videos”. Entertainment Weekly. Time Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  61. ^ “TV.com: The Ed Sullivan Show, ngày 1 tháng 6 năm 1969”. TV.com. CBS Interactive. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  62. ^ Anitai, Tamar (ngày 13 tháng 9 năm 2009). “2009 Video Music Awards Summary”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2010.
  63. ^ Smith, Olivia (ngày 6 tháng 11 năm 2009). “Beyonce wows in racy red costume at MTV Europe Music Awards”. Daily News. Mortimer Zuckerman. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2010.
  64. ^ Mapes, Jillian (ngày 1 tháng 8 năm 2011). “The 10 Best '00s Music Videos: Poll Results”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 8 năm 2011.
  65. ^ “Beyonce's Single Ladies voted best video of the decade”. Daily Mail. Associated Newspapers Ltd. ngày 27 tháng 12 năm 2009. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2011.
  66. ^ Kanye West Crashes VMA Stage During Taylor Swift's Award Speech
  67. ^ Respers, Lisa (ngày 14 tháng 9 năm 2009). “Anger over West's disruption at MTV awards”. CNN. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2013. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  68. ^ “Kanye West Storms the VMAs Stage During Taylor Swift's Speech”. Rolling Stone. ngày 13 tháng 9 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 9 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 9 năm 2009.
  69. ^ Crosley, Hillary (ngày 14 tháng 9 năm 2009). “Kanye West Apologizes To Taylor Swift For VMA Rant”. MTV News. Viacom. Truy cập ngày 16 tháng 5 năm 2011.
  70. ^ Powers, Ann (ngày 14 tháng 9 năm 2009). “Beyoncé and Taylor Swift: Sisterhood is powerful, especially when male-directed”. Los Angeles Times. Tribune Company. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  71. ^ Alexis, Nadeska (12 tháng 4 năm 2012). "President Obama Calls Kanye West A 'Jackass'... Again". MTV. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  72. ^ “2008 Power 105.1 Powerhouse Concert”. Rap-Up. Devin Lazerine. ngày 29 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 26 tháng 12 năm 2010.
  73. ^ "Princess Charming: Beyonce channels the spirit of Adam Ant for head-banging World Music Awards Performances". Daily Mail. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  74. ^ "Video: Beyonce on 'Saturday Night Live'". Rap-Up. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  75. ^ Rodriguez, Jayson (28 tháng 1 năm 2009). "Justin Timberlake Reveals How He Coaxed Beyonce into 'SNL' skit". MTV. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  76. ^ Montgomery, James (17 tháng 11 năm 2008). "Justin Timberlake, Beyonce, Eminem, Fall Out Boy Mark End Era of 'Total Request Live'". MTV. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  77. ^ “Beyonce-Single Ladies live Bet”. 106 & Park. Black Entertainment Television. Viacom. ngày 18 tháng 11 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2010.
  78. ^ “Raunchy Christina Aguilera, Beyonce and Rihanna battle it out on stage for the title of America's sexiest singer”. Daily Mail. Associated Newspapers Ltd. ngày 24 tháng 11 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 21 tháng 3 năm 2013.
  79. ^ “Video: Beyonce on 'Ellen DeGeneres Show'. Rap-Up. Devin Lazerine. ngày 25 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2010.
  80. ^ “Video: Beyonce Rocks Today Concert Series”. Rap-Up. Devin Lazerine. ngày 26 tháng 11 năm 2008. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2010.
  81. ^ “Beyonce 'fros some moves in identical yellow and black crochet dresses for Good Morning America performance”. Daily Mail. Associated Newspapers Ltd. ngày 4 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2011.
  82. ^ “Beyonce Dazzles on 'GMA' Summer Concert Series (Video)”. Rap-Up. Devin Lazerine. ngày 1 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 23 tháng 9 năm 2011.
  83. ^ Newman, Jason (ngày 15 tháng 8 năm 2011). “Concert Review: Beyoncé Reigns at Roseland Ballroom”. Rap-Up. Devin Lazerine. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2011.
  84. ^ Wete, Brad (ngày 15 tháng 8 năm 2011). “Beyonce performs first of four-night run of her new '4' album at small NYC theater – an EW review”. Entertainment Weekly. Time Inc. Truy cập ngày 21 tháng 8 năm 2011.
  85. ^ McCall, Tris (ngày 3 tháng 2 năm 2013). “Beyonce halftime show at Super Bowl 2013: Plenty to prove”. The Star-Ledger. Advance Publications. Truy cập ngày 3 tháng 2 năm 2013.
  86. ^ “Single Ladies [Single, Import]”. Amazon.com. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  87. ^ "Single Ladies (Put a Ring on It) - Dance Remixes - EP". iTunes. Apple Inc. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  88. ^ “Single Ladies (Put A Ring On It) – Dance Remixes”. Amazon.fr. Truy cập ngày 22 tháng 3 năm 2011.
  89. ^ a b c d e f g h i j k “Beyoncé – Single Ladies (Put a Ring on It)”. Australian-charts.com. Hung Medien. Truy cập ngày 12 tháng 4 năm 2011.
  90. ^ “The ARIA Report (issue 980)” (PDF). Australian Recording Industry Association. ngày 3 tháng 8 năm 2009. tr. 18. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2011.
  91. ^ “Beyoncé reúne 164 mil pessoas em sua primeira turnê pelo Brasil” (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Universo Online. Grupo Folha. ngày 7 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2012.
  92. ^ “NMC Airplay TOP 10 Week05 (26.01.2009 - 01.02.2009)”. BAMP. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 4 năm 2009. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2012.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  93. ^ “Beyonce Album & Song Chart History”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  94. ^ “Beyoncé – Single Ladies (Put a Ring on It)”. International Federation of the Phonographic Industry (Czech Republic). Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2011.
  95. ^ “Beyoncé - Single Ladies (Put A Ring On It)” (bằng tiếng Hà Lan). Top 40 Netherlands. 2013. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2013.[liên kết hỏng]
  96. ^ “Beyonce Album & Song Chart History”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  97. ^ “Rádios Top 40 játszási lista” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  98. ^ “Discography Beyoncé”. Irish Singles Chart. Hung Medien. Truy cập ngày 21 tháng 12 năm 2010.
  99. ^ “Media Forest: Airplay chart”. mediaforest.biz. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 4 năm 2012.
  100. ^ “Beyonce Album & Song Chart History”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  101. ^ “Beyoncé – Single Ladies (Put a Ring on It)” (bằng tiếng Slovak). International Federation of the Phonographic Industry (Slovakia). Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 4 năm 2011.
  102. ^ “South Korean Gaon Chart - Week: ngày 3 tháng 1 năm 2010 to ngày 9 tháng 1 năm 2010” (bằng tiếng Hàn). Gaon Chart. Truy cập ngày 15 tháng 2 năm 2012.
  103. ^ "Beyoncé". The Official Charts Company. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  104. ^ “UK R&B Chart”. Music Week. United Business Media. 32 (1): 46. ngày 18 tháng 1 năm 2009. ISSN 0265-1548.
  105. ^ Cohen, Jonathan (4 tháng 12 năm 2008). "Beyonce Assumes Control Of Hot 100". Billboard (Prometheus Global Media). Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  106. ^ Hasty, Katy (5 tháng 2 năm 2009). "Life is Good for Clarkson Atop Hot 100". Billboard (Prometheus Global Media). Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  107. ^ “Beyonce Album & Song Chart History”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  108. ^ a b “Beyoncé”. Allmusic. Rovi Corporation. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2010.
  109. ^ “Beyonce Album & Song Chart History”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2011.
  110. ^ a b “The ARIA Report (issue 980 – End of Year)” (PDF). Australian Recording Industry Association. tr. 20. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2011.
  111. ^ “Top Hip-Hop and R&B Songs & Singles Charts”. Billboard. Prometheus Global Media. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  112. ^ a b “The ARIA Report (End of Year 2009)” (PDF). Australian Recording Industry Association. tr. 2, 17. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2011.
  113. ^ “Jaaroverzichten 2010 (Flanders)” (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Hung Medien. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  114. ^ “Canadian Hot 100 Year End Chart – 2009”. Billboard. Prometheus Global Media. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  115. ^ “Dutch Top 40 Year End”. MegaCharts. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  116. ^ “Éves összesített listák – MAHASZ Rádiós TOP 100 (súlyozott)” (bằng tiếng Hungary). Mahasz. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  117. ^ “Best of 2009 – Ireland”. International Recording Media Association. Truy cập ngày 17 tháng 6 năm 2010.
  118. ^ “Annual Top 50 Singles Chart 2009”. Recording Industry Association of New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 5 năm 2010. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2010.
  119. ^ “Chart: PROMUSICAE Year end Singles Chart – 2009” (PDF). Productores de Música de España. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 26 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  120. ^ “Årslista Singlar – År 2009 |” (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2011.
  121. ^ “Year End Charts – Hot 100 Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. 2009. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
  122. ^ “Year End Charts – Radio Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2013.
  123. ^ “Year End Charts – Digital Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2013.
  124. ^ “Year End Charts – Dance Club Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. 2009. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
  125. ^ “Year End Charts – Hot R&B/Hip Hop Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. 2009. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
  126. ^ “Year End Charts – Pop Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. 2009. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
  127. ^ “Year End Charts – Rhythmic Songs”. Billboard. Prometheus Global Media. 2009. Truy cập ngày 26 tháng 4 năm 2011.
  128. ^ “Year End Charts – Hot Ringtones”. Billboard. Prometheus Global Media. 2009. Truy cập ngày 17 tháng 3 năm 2013.
  129. ^ "Digital Music Sales Around the World Lưu trữ 2015-11-05 tại Wayback Machine". IFPI. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  130. ^ “Australian Urban Singles Year End Charts 2010”. Australian Recording Industry Association. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2011.
  131. ^ “Annual South Korea International Chart”. Gaon Chart. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2013.
  132. ^ “ARIA Chart Sales – ARIA End of Decade Sales/Top 100” (PDF). Australian Recording Industry Association. 2010. tr. 2. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2011.
  133. ^ “Top 100 Music Hits, Top 100 Music Charts, Top 100 Songs & The Hot 100”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  134. ^ “Top Hip-Hop and R&B Songs & Singles Charts”. Billboard. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  135. ^ “Delta Goodrem's talents top the charts”. BBC Online. BBC. ngày 2 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 3 tháng 5 năm 2012.
  136. ^ "ARIA Charts - Accreditations - 2010 Singles". ARIA Charts. Truy cập 21 tháng 3 năm 2013.
  137. ^ a b c “Chứng nhận đĩa đơn Canada – Beyonce – Single Ladies (Put a Ring on It)” (bằng tiếng Anh). Music Canada. Truy cập ngày 18 tháng 7 năm 2012.
  138. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. ngày 9 tháng 10 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2012.
  139. ^ "Latest Gold/Platinum". RIANZ.
  140. ^ “Chart: Promusicae 14 2010” (PDF). Productores de Música de España. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2010.
  141. ^ "Certified Awards Search: Beyoncé Lưu trữ 2017-10-06 tại Wayback Machine". British Phonographic Industry. The Official Charts Company.
  142. ^ “Search Results – Single Ladies (Put a Ring on It) – Beyonce”. Recording Industry Association of America. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2010.
  143. ^ “Search Results – Single Ladies (Put a Ring on It) – Beyonce”. Recording Industry Association of America. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2010. Note: Click on the "Mastertone" button to access master tone certifications.
Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Single_Ladies_(Put_a_Ring_on_It)