Wiki - KEONHACAI COPA

PewDiePie

PewDiePie
Kjellberg vào tháng 7 năm 2019
Thông tin cá nhân
SinhFelix Arvid Ulf Kjellberg
24 tháng 10, 1989 (34 tuổi)
Gothenburg, Thụy Điển
Nghề nghiệpYouTuber
Vợ/chồng
Marzia Kjellberg (cưới 2019)
Chữ ký
Trang webpewdiepie.store
Thông tin YouTube
Biệt danhPewds
Các kênh
Năm hoạt động2010–nay
Thể loại
Lượt đăng ký111 triệu
Tổng lượt xem28,8 tỉ
Mạng lướiKhông (trước đây là Machinima và sau này là Maker Studios)
Hợp tác với
100.000 lượt đăng ký2012[a]
1.000.000 lượt đăng ký2012[b]
10.000.000 lượt đăng ký2013[‡ 2]
50.000.000 lượt đăng ký2016[1]
100.000.000 lượt đăng ký2019[2]
Lượt đăng ký và lượt xem được cập nhật tính đến tháng 1 năm 2023.

Felix Arvid Ulf Kjellberg[‡ 3] (/ˈʃɛlbɜːrɡ/ SHEL-burg,[3] tiếng Thụy Điển: [ˈfěːlɪks ˈǎrːvɪd ɵlf ˈɕɛ̂lːbærj]  ( nghe); sinh ngày 24 tháng 10 năm 1989), được biết đến với biệt danh trên mạng là PewDiePie (/ˈpjuːdp/ PEW-dee-py), là một YouTuber, diễn viên hài và nhà từ thiện người Thụy Điển, được biết đến chủ yếu qua những video Let's Play và thể loại hài kịch. Sau khi đăng ký kênh YouTube với biệt danh của mình vào năm 2010, Kjellberg chủ yếu đăng video Let's Play về trò chơi hành độngkinh dị. Kênh của anh đã có sự tăng trưởng đáng kể về mức độ phổ biến trong hai năm tiếp theo và anh đã đạt 1 triệu lượt đăng ký vào tháng 7 năm 2012. Theo thời gian, phong cách nội dung của anh được đa dạng hóa bao gồm vlog, hài kịch ngắn, chương trình được định dạng và video ca nhạc.

Vào ngày 15 tháng 8 năm 2013, PewDiePie trở thành trở thành người dùng có nhiều lượt đăng ký nhất trên YouTube, bị vượt qua vào cuối năm 2013 bởi YouTube Spotlight. Nắm giữ vị trí kể từ ngày 23 tháng 12 năm 2013, kênh đã có hơn 100 triệu lượt đăng ký tính đến đầu tháng 9 năm 2019.[4] Từ ngày 29 tháng 12 năm 2014 đến ngày 14 tháng 2 năm 2017, kênh của PewDiePie nắm giữ vị thế là kênh có nhiều lượt xem nhất YouTube, và tính đến tháng 5 năm 2022, kênh đã có hơn 28 tỷ lượt xem video.[4]

Nội dung YouTube được chú ý nhất của PewDiePie bao gồm bình luận về video game, chủ yếu là thể loại kinh dị, nhưng rồi anh chuyển hướng sang nhiều thể loại game đa dạng. Ngoài ra, anh còn làm một số video về thể loại hài kịch, châm biếm và thỉnh thoảng là vlog.

Những năm đầu cuộc đời và giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]

Lối vào Đại học Công nghệ Chalmers, nơi Kjellberg đã bỏ học.

Kjellberg sinh ra và lớn lên tại Gothenburg, Thụy Điển.[5][6] Anh được sinh ra với mẹ là Lotta Kristine Johanna (sinh ngày 7 tháng 5 năm 1958) và Ulf Christian Kjellberg (sinh ngày 8 tháng 1 năm 1957), và lớn lên cùng chị gái.[7] Mẹ anh, một cựu giám đốc công nghệ thông tin (CIO), được vinh danh là CIO của năm 2010 tại Thụy Điển.[7] Cha anh cũng là một giám đốc điều hành của công ty.[8]

Trong quãng thời gian đi học đầu, anh quan tâm đến hội họa và đã nói chi tiết rằng anh sẽ vẽ các nhân vật trò chơi video nổi tiếng như MarioSonic the Hedgehog, cũng như chơi các trò chơi video trên Hệ thống giải trí Super Nintendo của mình, chẳng hạn như Star FoxDonkey Kong Country 2: Diddy's Kong Quest.[9][10][11] Khi còn học trung học, anh thường chơi điện tử trong phòng ngủ và hay trốn học để chơi trò chơi điện tử tại một quán cà phê Internet với bạn bè;[12][13] Về chủ đề này, Kjellberg đã bình luận: "Thụy Điển có một nền văn hóa tuyệt vời xung quanh việc chơi game."[10] Năm cuối cấp 3, anh lấy tiền kiếm được từ việc bán những bức tranh của bà mình để mua máy tính.[12] Sau đó, anh tiếp tục theo đuổi bằng cấp về kinh tế công nghiệpquản lý công nghệ tại Đại học Công nghệ Chalmers, nhưng đã rời trường đại học năm 2011.[14][15] Về quyết định của mình, Kjellberg đã tuyên bố: "Nghĩ về nó bây giờ, điều đó hoàn toàn vô lý. Để vào trường Chalmers học kinh tế công nghiệp, bạn cần phải học thật giỏi, nhưng bằng cách nào đó tôi đã hạnh phúc hơn khi bán hot dog và làm video chơi game của riêng mình."[16] Trong khi lý do rời trường Chalmers thường được báo cáo là muốn tập trung vào sự nghiệp YouTube của mình,[14] vào năm 2017, Kjellberg đã làm rõ, "Tại sao mọi người lại hiểu sai câu chuyện này? Tôi bỏ học đại học vì tôi không thích nó. Bỏ học đại học để theo đuổi YouTube, điều đó thật ngu ngốc."[17] Anh nói thêm rằng "quản lý công nghiệp và kinh tế thật là nhàm chán và tôi không thể liên hệ đến bất cứ ai."[17]

Kjellberg cũng đã chia sẻ rằng anh "yêu Photoshop", muốn làm việc với nghệ thuật xử lý ảnh bằng Adobe Photoshop hơn là ở trường.[17] Liên quan đến niềm đam mê này, anh tham gia các cuộc thi Photoshop và gần như kiếm được quyền học việc tại "một trong những công ty quảng cáo tốt nhất ở Scandinavia."[17] Anh cũng quan tâm đến việc tạo nội dung trên YouTube và sau khi không kiếm được quyền học việc, anh đã bán các bản in hình ảnh Photoshop phiên bản giới hạn của mình để mua một cái máy tính để làm các video trên YouTube.[17]

Sự nghiệp YouTube[sửa | sửa mã nguồn]

Những năm đầu sự nghiệp (2010 - 2012)[sửa | sửa mã nguồn]

Kjellberg ban đầu đăng ký tài khoản YouTube mang tên "Pewdie" vào tháng 12 năm 2006, anh giải tích từ "pew" là tiếng của laser còn "die" nghĩa là chết, nhưng tài khoản này anh quên mật khẩu.[12][18][19] Kjellberg tạo tài khoản YouTube có tên là PewDiePie vào ngày 29 tháng tháng 4 năm 2010.[19] Trong năm 2012, kênh của anh trở nên nổi tiếng và cuối cùng đạt được cột mốc 1 triệu người đăng ký vào ngày 11 tháng 7 năm 2012, và 2 triệu trong tháng 9 năm 2012.[20] Tháng 2 năm 2012, anh đã thử tham gia chương trình King of the Web - một cuộc thi trên mạng. Trong lần thử đầu tiên, anh đã thất bại và mất chức vô địch tổng thể. Nhưng anh vẫn trở thành "Gaming King of the Web" trong cuộc bầu cử từ ngày 1 đến 15 tháng 2 năm 2012. Trong cuộc bầu cử tiếp theo, anh đã chiến thắng và tặng số tiền thắng được cho Quỹ Động Vật Hoang Dã Thế giới. Anh cũng đã phát biểu tại Hội nghị Nonick 2012.[21][22] Trong tháng 10 năm 2012, OpenSlate đã xếp hạng kênh PewDiePie là kênh YouTube số 1 theo các điều khoản của "Điểm Slate".[23]

Trở thành một trong những người dùng được nhiều lượt đăng ký nhất và tiếp tục con đường phát triển (2013 - 2016)[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 18 tháng 2 năm 2013, kênh của anh đạt 5 triệu lượt người đăng ký.[19] Trong tháng 4 năm 2013, kênh của Kjellberg đã đạt hơn 6 triệu lượt người đăng ký theo tờ New York Times.[24] Sau này anh đoạt giải Chương Trình Phổ Biến Nhất Trong Xã Hội, đấu với Jenna Marble, SmoshToby Turner, cùng với Giải Ngôi Sao Xã Hội Thụy Điển, tại buổi khai mạc giải Social Stars được đăng khai ở Singapore trong tháng 5 năm 2013.[25] Anh cũng đã được giới thiệu là một ứng cử viên cho giải Game nổi tiếng nhất trong giờ phát sóng trực tiếp của buổi lễ. Trong tháng 6 năm 2013, kênh của anh đạt đến 8 triệu lượt đăng ký, và sau đó là 9 triệu. Từ năm 2012 đến năm 2013, kênh của anh là một trong những kênh phát triển nhanh nhất của YouTube. Lần chơi qua The Last of Us của anh được ghi thành tài liệu vì làm các game thủ không nói nên lời. Tháng 7 năm 2013, anh đánh bại Jenna Marbles để trở thành người được đăng ký nhiều thứ 2 trên YouTube[26] và ngày 9 tháng 7 năm 2013 đạt 10 triệu người đăng ký.[19][27]

Khủng hoảng truyền thông (2017–2018)[sửa | sửa mã nguồn]

Kênh của Kjellberg tập trung chủ yếu vào những bình luận và phản ứng của anh về những trò chơi mà anh chơi qua. Anh được biết đến với việc chơi các game thể loại kinh dị và hành động, đáng nói nhất là Amnesia: The Dark Descent và những cốt truyện làm bởi fan của anh.[28]

Tháng 9 năm 2017, Kjellberg bị chỉ trích với những câu đùa giỡn thái quá mang tính phân biệt chủng tộc đã khiến cho anh gặp nhiều phản ứng trái chiều. Youtube đã cấm anh công chiếu "Scare Pewdiepie Season: 2"[29][30] sau việc anh phát ngôn có tính phân biệt chủng tộc khi live-stream PlayerUnknowns' Battleground.[31] Ông Sean Vanaman, đồng sáng lập công ty Campo Santo, đã cấm anh đăng video về game Firewatch họ sắp ra.[32][33]

Kjellberg sau đó đã đăng tải một đoạn video ngắn xin lỗi vì phát ngôn không đúng mực trong trong buổi phát trực tiếp, bày tỏ rằng "Tôi thất vọng về bản thân mình, vì có vẻ như tôi không học được gì từ tất cả những tranh cãi trong quá khứ, [Văng tục] thực sự không ổn. Tôi thực sự xin lỗi nếu tôi đã xúc phạm, làm tổn thương hoặc thất vọng bất kỳ ai. Ở vị trí này thì tôi nên biết điều."[34]

Từ đó trở đi anh chỉ làm những video thực tế như "LWIAY", "Meme Review",...[35]

Xuất hiện trong các công việc khác[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 4 năm 2013, Kjellberg có một xuất hiện nhỏ trong mùa thứ hai của chương trình web, Epic Rap Battle of History, trong vai Mikhail Baryshnikov.[36] Một đoạn video của anh đã xuất hiện trong một clip Music Mix của Joe Penna, được biết nhiều hơn với biệt danh, MysteryGuitarMan. Kjellberg đã được thông báo sẽ làm một giám khảo khách mời trong mùa thư hai của sê-ri web Internet Icon.[37] Anh cũng đã xuất hiện trong một clip của SmoshGames của cặp đôi YouTube Smosh và Your Grammar Sucks của Jacksfilms. Anh hiện cũng có mặt trên một chương web sê-ri mới của YouTube 'PewDiePie And Friends' sáng tạo bởi Polaris.[38][38]

Hình ảnh trong cộng đồng[sửa | sửa mã nguồn]

Kjellberg thường gọi fan của mình '9 year old army'. Anh thường làm một cú 'Brofist' (Cụng tay) vào những phút cuối trước khi chào tạm biệt trong những clip của mình.[19] Tại Giải Social Star, anh cố tình đi chào đón những người hâm mộ của mình bất chấp bảo vệ cảnh cáo anh không được làm như vậy.[18][39]

Kênh của Kjellberg thuộc Maker Studio, được biết đến như một mạng lưới đa kênh làm tăng sự phát triển của những kênh dưới quyền của nó.[19] Kênh của Kjellberg xuất hiện rất mạnh mẽ đến các khán giả nhỏ tuổi, một nhóm được Google đề cập với cái tên Generation C vì thói quen "sáng tạo (Creation), sửa chữa (Curation), kết nối (Connection) và cộng đồng (Community).[18][40]

Ra mắt game, sách và series Scare PewDiePie[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 20 tháng 10 năm 2015 cùng với Penguin Group, anh xuất quyển sách của riêng anh, "This Book Loves You". Quyển sách được lấy cảm hứng từ chính fan của anh trên Twitter. Tháng 1 năm 2017, anh đã bán được 112.000 bản.[41]

Ngày 24 tháng 9 năm 2015, Kjellberg hợp tác cùng Outerminds cho ra mắt game đầu tiên "PewDiePie: Legend of the Brofist" trên nền tảng IOSAndroid.[42][43] Tháng 1 năm 2016, anh công bố việc hợp tác với Makers tạo nên Revelmode và ngày 29 tháng 9 năm 2016, anh cho ra mắt "PewDiePie's Tuber Simulator" trên nền tảng IOS và Android.[44] Vào ngày ra mắt, game đã thu hút lượt tải đông nhất trên App Store và ngày hôm sau anh được thông tin rằng game của anh đã được tải trên 1.000.000 lần.[44][45]

Tháng 2 năm 2015, cùng nhà sản xuất Maker Studios (hiện là Disney Digital Network) và Youtube Red (Nay là Youtube Premium), Kjellberg cho ra mắt Scare PewDiePie mùa đầu tiên.[46][47]

Cạnh tranh với T-Series (2018–29/4/2019)[sửa | sửa mã nguồn]

Logo T-Series

Vào ngày 5 tháng 11 năm 2018, Felix Kjellberg đã đăng tải bài rap "Bitch Lasagna" hay còn được gọi là "T-Series diss track"[48] trên kênh YouTube của mình để chống lại kênh đối thủ T-Series vì kênh này vượt mặt anh về số lượng người đăng ký.[49] Bài rap này chủ yếu mang nội dung châm biếmhài hước qua việc chỉ trích T-Series với nhiều ngôn từ chọc ghẹo, chửi rủa,[50][51] cho rằng kênh dùng tool, sub bot để tăng số người đăng ký kênh.[52][53]

Ngày 31 tháng 3 năm 2019, PewDiePie cho ra mắt thêm 1 diss track có tên là "Congratulations" cùng với Roomie và Boyinaband để mỉa mai T-Series.[54][54][55][56]

Vào ngày 11 tháng 4, T-Series bắt đầu yêu cầu tòa án yêu cầu xóa "bản nhạc diss" của Kjellberg khỏi YouTube.[57][58] Theo trang web giải trí và luật Iprmentlaw, T-Series gửi đơn kiện lên tòa Tòa án Tối cao Delhi để yêu cầu xóa video "Bitch Lasagna" và "Congratulations" của Kjellberg khỏi YouTube. Kết quả phán quyết có lợi cho T-Series. Đơn kiện chống lại Kjellberg cho rằng các bài hát của anh ấy là "phỉ báng, miệt thị, xúc phạm", đồng thời cho rằng bình luận phía dưới video có tính chất "lăng mạ, tục tĩu và cũng có tính chất phân biệt chủng tộc."[51][59][60] Quyền truy cập vào các video nhạc trên YouTube đã bị chặn ở Ấn Độ.[60] Hai bên được cho là đã đi đến giải quyết vào cuối tháng 7, mặc dù các video của Kjellberg vẫn bị chặn ở Ấn Độ.[60]

Tranh cãi Nimses, sê-ri Minecraft và bị cấm ở Trung Quốc (2019–2020)[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 21 tháng 6 năm 2019, Kjellberg cho ra mắt Gaming Week (Tuần chơi game), cùng với đó là sự trở lại của các video Let's Play sau nhiều năm vắng mặt. Kjellberg đăng tải hàng loạt các video anh chơi Minecraft suốt nhiều tháng, nội dung này cũng lọt vào Meme ReviewLWIAY. Kjellberg đã từng chơi Minecraft trong những thời đầu sự nghiệp YouTube của mình, anh hạn chế tham gia vào xu hướng "YouTuber Minecraft", những người chỉ chơi Minecraft vì mức độ phổ biến của nó thay vì tự trải nghiệm.[61][62] Do đó, Kjellberg đã nhận được hơn 570 triệu tổng lượt xem suốt một tháng (tháng 7), và lượng đăng ký của anh tăng hàng ngày từ 25,000 đến 45,000 suốt tháng đó.[62] Dù vậy, Kjellberg thừa nhận anh chỉ chơi game cho vui và không muốn trở thành một "YouTuber Minecraft", nói rằng "Nếu Minecraft bị cho là chán, tôi có thể chuyển sang những thứ khác."[61]

Ngày 25 tháng 8, PewDiePie trở thành YouTuber độc lập đầu tiên đạt 100 triệu lượt đăng ký và là kênh thứ hai đạt cột mốc này sau khi T-Series vượt mặt anh vài tháng trước.[63] YouTube đã tweet một lời chúc mừng.[64]

Vào tháng 10, trong một video Kjellberg tuyên bố rằng nội dung YouTube của anh, cũng như nội dung liên quan đến anh trên các trang web khác như Reddit, đều đã bị chặn ở Trung Quốc. Anh giải thích rằng điều này là anh bình luận về các cuộc biểu tình tại Hồng Kông 2019–20 và so sánh hình ảnh nhà lãnh đạo tối cao của Trung Quốc Tập Cận Bình với Winnie-the-Pooh trong một video trước đó.[65] Vào tháng 12, Kjellberg được công nhận là người sáng tạo được xem nhiều nhất trong năm, với hơn 4 tỷ lượt xem vào năm 2019.[66]

Đời sống riêng tư[sửa | sửa mã nguồn]

Nguồn gốc của Kjellberg là Thụy Điển, nhưng sau anh dời đến sống với bạn gái của anh Marzia Bisognin (biệt danh trên mạng là CutiePieMarzia), ở đất nước bản địa của cô, Ý. Anh dời đến Vương Quốc Anh vào tháng 7 năm 2013 để có mạng internet tốt hơn. Hiện anh và vợ của mình, Marzia Kjellberg đã chuyển đến Nhật Bản[67]. Kjellberg là con của CIO (giám đốc công nghệ thông tin) cũ của KappAhl, Lotta Kristine Johanna, người từng đoạt giải CIO của năm 2010 tại Thụy Điển.

Làm từ thiện[sửa | sửa mã nguồn]

Kjellberg đã từng làm từ thiện cho Quỹ Động Vật Hoang Dã Thế giới và trẻ em trong Bệnh viện Nghiên cứu St. Jude. Anh cũng đã mở một cuộc vận động từ thiện nước, nơi mà fan của anh có thể quyên góp tiền, trong danh dự và ăn mừng 10 triệu lượt đăng ký. Vào ngày 27 tháng 7 năm 2013, quỹ từ thiện của anh đã quyên góp được $172,189 trong mức $250,000 dự định.

Kết hôn[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 19 tháng 8 năm 2019, Kjellberg chính thức tổ chức đám cưới với người bạn gái 8 năm Marzia Bisognin, sau khi cầu hôn cô tại Nhật Bản năm 2018.[68] Đám cưới được tổ chức một cách riêng tư với sự tham gia của người thân Kjellberg và Marzia. Những bức ảnh chụp tại đám cưới sau đó đã được Kjellberg đăng lên trang Twitter cá nhân của anh, bài đăng nhanh chóng thu hút hơn một triệu lượt thích trong vòng 10 giờ.[69]

Các giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

NămLễ trao giảiHạng mụcKết quảTham khảo
2013Starcount Social Star AwardsMost Popular Social ShowĐoạt giải[70][71]
Sweden Social Star AwardĐoạt giải[72]
Shorty Awards lần thứ 5#GamingĐoạt giải[73]
2014Teen Choice AwardsWeb Star: GamingĐoạt giải[74]
Streamy Awards lần thứ 4Best Gaming Channel, Show, or SeriesĐề cử[75]
Golden Joystick AwardsGaming PersonalityĐoạt giải[76]
2015Teen Choice AwardsChoice Web Star: MaleĐề cử[77]
Streamy Awards lần thứ 5Best First-Person Channel, Show, or SeriesĐề cử[78]
Best Gaming Channel, Show, or SeriesĐoạt giải[78]
Golden Joystick AwardsGaming PersonalityĐoạt giải[79]
2016Shorty Awards lần thứ 8YouTuber of The YearĐề cử[80]
2017People's Choice Awards lần thứ 43Favorite YouTube StarĐề cử[81]

Danh sách bài hát[sửa | sửa mã nguồn]

NămBài hátĐồng sản xuấtGhi chúTham khảo
2013"Jabba the Hutt"Schmoyoho
2014"His Name Is Pewdiepie"Roomie
2014"FABULOUS!"Roomie
2015"PEWDIEPIE'S SONG"Dan Bull
2015"I'm A Pretty Girl"Schmoyoho
2016"Brofist"Roomie
2018"Hej Monika"Party in BackyardBản cover và remix của Hej Monika
2018"Bitch Lasagna" (T-Series diss track)Hợp tác sản xuất với Party in BackyardChỉ trích công ty T-Series[82]
2018"Rewind Time"Hợp tác sản xuất với Party in BackyardBản làm lại không chính thức của YouTube Rewind[83]
2019"Congratulations"Hợp tác sản xuất với Roomie và BoyinabandChúc mừng và chỉ trích T-Series[84]
2020"Coco"Hợp tác sản xuất với David "Boyinaband" BrownChâm biếm Cocomelon

*2020: "YouTube Rewind 2019, but it's actually good". Được hỗ trợ bởi Flyingkitty,...

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Kjellberg nhận Nút Play Bạc thứ hai cho kênh Jack septiceye2 vào năm 2016.[‡ 1]
  2. ^ Kjellberg nhận Nút Play Vàng thứ hai cho kênh Jack septiceye2 vào năm 2016.[‡ 1]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích
  1. ^ Cohen, Joshua (19 tháng 12 năm 2016). “YouTube Sends PewDiePie Custom Ruby Play Button To Commemorate 50 Million Subscribers”. Tubefilter. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 7 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2018.
  2. ^ Weiss, Geoff (9 tháng 9 năm 2019). “YouTube Forges New 'Red Diamond Creator Award' For Channels With 100 Million Subscribers”. Tubefilter. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2020.
  3. ^ “An Interview With PewDiePie” (Phỏng vấn). Phóng viên Emma Blackery. 15 tháng 7 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 5 năm 2016.
  4. ^ a b “pewdiepie YouTube Stats, Channel Statistics”. Social Blade. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2018.
  5. ^ Lindstrom, Lars (ngày 13 tháng 7 năm 2012). “COLUMN Pewdiepie rules, now one million subscribers”. Expressen. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2012.
  6. ^ Leskin, Paige (5 tháng 3 năm 2020). “The career of PewDiePie, the controversial 30-year-old video creator who just returned to YouTube after a 30-day hiatus”. Business Insider. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 4 tháng 4 năm 2020.
  7. ^ a b Rosengren, Lina (ngày 19 tháng 11 năm 2012). “Han hoppade av Chalmers – blev heltidskändis på Youtube”. IDG.se (bằng tiếng Thụy Điển). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 11 năm 2012.
  8. ^ Dewey, Caitlin (ngày 9 tháng 9 năm 2015). “Who is PewDiePie, the first person to ever hit 10 billion YouTube views?”. The Washington Post. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2018.
  9. ^ Biography.com Editors (ngày 28 tháng 11 năm 2017). “PewDiePie Biography”. Biography. A&E Television Networks. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2018.
  10. ^ a b Parker, Laura A. (ngày 16 tháng 12 năm 2015). “The Cult of PewDiePie: How a Swedish Gamer Became YouTube's Biggest Star”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2016.
  11. ^ Games That Defined Me Growing Up (bằng tiếng Anh), Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 10 năm 2021, truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2021
  12. ^ a b c “PewDiePie Biography”. Biography. A&E Television Networks. 28 tháng 11 năm 2017. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2018. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2018.
  13. ^ Parker, Laura A. (16 tháng 12 năm 2015). “The Cult of PewDiePie: How a Swedish Gamer Became YouTube's Biggest Star”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2016.
  14. ^ a b Gallagher, Paul (ngày 15 tháng 11 năm 2013). “Meet Felix Kjellberg – the new 'King of the Web'. The Independent. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 23 tháng 11 năm 2013.
  15. ^ Henrik Johnsson (Producer) (9 tháng 8 năm 2014). Felix "PewDiePie" Kjellberg (MP3) (Radio). Sveriges Radio. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018.
  16. ^ Henrik Johnsson (Producer) (ngày 9 tháng 8 năm 2014). Felix "PewDiePie" Kjellberg (MP3) (Radio). Sveriges Radio. Truy cập ngày 2 tháng 5 năm 2018.
  17. ^ a b c d e PewDiePie (ngày 31 tháng 1 năm 2017). BEFORE I WAS FAMOUS. PewDiePie. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2017.
  18. ^ a b c Wadeson, Danny (6 tháng 9 năm 2013). “Gamertube: PewDiePie and the YouTube Commentary Revolution”. Polygon. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2015.
  19. ^ a b c d e f Drehs, Wayne (11 tháng 6 năm 2015). “How PewDiePie gamed the world”. ESPN. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 6 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2015.
  20. ^ “Pewdiepie Video Game Youtuber Reaches 2,000,000 Subscribers”. PRWeb. 21 tháng 9 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 11 tháng 11 năm 2012.
  21. ^ “Nonick Bilbao this week becomes the European capital of Gaming”. Euskal Irrati Telebista. 12 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2012.
  22. ^ “PewDiePie: Pewdie. PewDiePie 's speech Nonick 2012 (Felix Kjellberg)”. eitbcom. YouTube. 22 tháng 6 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 8 tháng 10 năm 2012.
  23. ^ Gutelle, Sam (8 tháng 10 năm 2012). “Check Out This Awesome Infographic of YouTube's Top 1,000 Channels”. Tubefilter. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2012.
  24. ^ O'Leary, Amy (12 tháng 4 năm 2013). “Glued to the Tube”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 4 năm 2013.
  25. ^ Lee, Jan (25 tháng 5 năm 2013). “Aaron Aziz more popular in social media than Fann Wong and Jeanette Aw”. AsiaOne. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2013.
  26. ^ Gutelle, Sam (6 tháng 7 năm 2013). “Smosh Hits 11 Million YouTube Subscribers, PewDiePie Hot on Its Heels”. Tubefilter. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2013.
  27. ^ “pewdiepie YouTube Stats by Social Blade”. Social Blade. 27 tháng 7 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 7 tháng 11 năm 2018.
  28. ^ Nathan (1 tháng 11 năm 2012). 'McPixel' by Mikolaj 'Sos' Kaminski”. Indie Game HQ. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 2 tháng 10 năm 2014.
  29. ^ Berg, Madeline (13 tháng 2 năm 2017). “Disney Cuts Ties With PewDiePie After Anti-Semitic Posts”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2017.
  30. ^ Solon, Olivia (14 tháng 2 năm 2017). “Disney severs ties with YouTube star PewDiePie over antisemitic videos”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2017.
  31. ^ Meekin, Paul (10 tháng 9 năm 2017). “WATCH: PewDiePie In Hot Water Again: Drops N-Word During PUBG Stream”. Heavy. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 11 tháng 9 năm 2017.
  32. ^ Hernandez, Patricia (10 tháng 9 năm 2017). “Indie Dev Calls For Copyright Strikes Against Pewdiepie After He Says N-Word on Stream”. Kotaku. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2017.
  33. ^ Feldman, Kate (12 tháng 9 năm 2017). “PewDiePie apologizes for using N-word on live stream”. New York Daily News. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2017.
  34. ^ Donnelly, Joe (12 tháng 9 năm 2017). “PewDiePie claims racial slur 'just slipped out' in apology video”. PC Gamer. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 9 năm 2017. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2017.
  35. ^ MacInnes, Paul (5 tháng 4 năm 2018). “What's up PewdiePie? The troubling content of YouTube's biggest star”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2018.
  36. ^ Gutelle, Sam (23 tháng 4 năm 2013). 'Epic Rap Battles of History' Posts Russian Showdown To End Season 2”. Tubefilter. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2015.
  37. ^ Internet Icon S2 Ep8 – The Trailer Challenge (Part 2 of 2) Feat SMOSH, Jenna Marbles, and PewDiePie. The YOMYOMF Network. YouTube. 11 tháng 7 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2015.
  38. ^ a b Graser, Marc (1 tháng 8 năm 2013). “Maker Studios Hits Reset on The Game Station, Renames it Polaris”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2017.
  39. ^ Wai Yee, Yip (27 tháng 5 năm 2013). “Stars get social on the red carpet”. The Straits Times. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2013. Truy cập ngày 29 tháng 5 năm 2013.
  40. ^ Dredge, Stuart (8 tháng 7 năm 2013). “With 50m weekly views, PewDiePie is world's most popular YouTube channel”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2013.
  41. ^ Berg, Madeline (5 tháng 12 năm 2016). “The Highest-Paid YouTube Stars 2016: PewDiePie Remains No. 1 With $15 Million”. Forbes. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2016.
  42. ^ Matulef, Jeffrey (13 tháng 4 năm 2015). “PewDiePie is starring in his own game”. Eurogamer. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2015.
  43. ^ Priestman, Chris (13 tháng 4 năm 2015). “PewDiePie: Legend of the Brofist should be out on iOS and Android this summer”. Pocket Gamer. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 4 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 4 năm 2015.
  44. ^ a b Spangler, Todd (30 tháng 9 năm 2016). 'PewDiePie's Tuber Simulator' Game Servers Crash as It Hits No. 1 on Apple's App Store Chart”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 7 tháng 10 năm 2016.
  45. ^ Sylvain, Michael (7 tháng 10 năm 2016). “Why PewDiePie's New Game Is Proof We're All Doomed”. Rolling Stone. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 20 tháng 3 năm 2018.
  46. ^ McAlone, Nathan (20 tháng 2 năm 2017). “What someone who worked closely with PewDiePie thinks about Disney and YouTube dropping him”. Business Insider. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2018. Truy cập ngày 3 tháng 8 năm 2018.
  47. ^ Sarkar, Samit (21 tháng 10 năm 2015). “PewDiePie is getting a reality series on YouTube's new ad-free subscription service”. Polygon. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2015.
  48. ^ "TSERIES DISS TRACK" PewDiePie video”. YouTube.
  49. ^ Spangler, Todd (3 tháng 12 năm 2018). “PewDiePie Zooms Past 73 Million YouTube Subscribers as Fans Rally to Keep Him Ahead of T-Series”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2018.
  50. ^ Romano, Aja (14 tháng 12 năm 2018). “How the "Subscribe to PewDiePie" meme could determine the future of YouTube”. Vox. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2020.
  51. ^ a b Hale, James (15 tháng 4 năm 2019). “T-Series Court Order Sees "Abusive, Vulgar, Racist" PewDiePie Diss Tracks Blocked In India”. Tubefilter. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2020.
  52. ^ “Fake Engagement Policy - YouTube Help”. support.google.com. Truy cập ngày 13 tháng 7 năm 2020.
  53. ^ Sharma, Rucha (1 tháng 9 năm 2018). “T-Series responds to PewDiePie's fans trolling as it inches towards becoming 'biggest YouTube channel'. DNA India. Truy cập ngày 27 tháng 3 năm 2020.
  54. ^ a b Alexander, Julia (31 tháng 3 năm 2019). “PewDiePie takes one last shot at T-Series as he concedes defeat to YouTube's Bollywood powerhouse”. The Verge. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2019.
  55. ^ Radulovic, Petrana (31 tháng 3 năm 2019). “PewDiePie admits defeat to T-Series”. Polygon. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
  56. ^ Tobin, Ben (2 tháng 4 năm 2019). “PewDiePie back on top as largest YouTube channel over Indian music label T-Series”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 4 năm 2019.
  57. ^ “Delhi High Court orders YouTube to take down PewDiPie videos over racist and derogatory comments towards India”. Bollywood Hungama. 10 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2019.
  58. ^ Pardiwalla, Tanzim (12 tháng 4 năm 2019). “Did The High Court Just Pick Sides In the T-Series vs PewDiePie War, Banning Diss Tracks?”. Mashable India. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2019.
  59. ^ “The alleged court order” (PDF). IPRMENTLAW. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 10 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 10 tháng 4 năm 2019.
  60. ^ a b c Ghosh, Shona (13 tháng 8 năm 2019). “PewDiePie and T-Series quietly settled a court battle over 'racist' diss tracks following their epic YouTube battle”. Business Insider. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2019.
  61. ^ a b Hernandez, Patricia (ngày 1 tháng 8 năm 2019). “Minecraft is having a big comeback in 2019”. Polygon. Truy cập ngày 16 tháng 8 năm 2019.
  62. ^ a b Alexander, Julia (ngày 7 tháng 8 năm 2019). “Minecraft's recent surge on YouTube proves that the 'PewDiePie Effect' is still real”. The Verge. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2019.
  63. ^ Busby, Mattha (25 tháng 8 năm 2019). “PewDiePie surpasses 100m subscriber mark on YouTube”. The Guardian. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2019.
  64. ^ Tassi, Paul (25 tháng 8 năm 2019). “PewDiePie Hits 100 Million Subscribers, And Surprisingly, YouTube Pays Him Tribute”. Forbes. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2019.
  65. ^ Drayton, Tiffanie (20 tháng 10 năm 2019). “PewDiePie banned in China after reacting to Winnie the Pooh memes”. The Daily Dot (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 21 tháng 10 năm 2019.
  66. ^ Spangler, Todd (5 tháng 12 năm 2019). “PewDiePie Is the Most-Watched YouTube Creator of 2019 With 4 Billion Views”. Variety. Truy cập ngày 5 tháng 12 năm 2019.
  67. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên :0
  68. ^ Garvey, Marianne (20 tháng 8 năm 2019). “PewDiePie and Marzia Bisognin marry after dating for eight years”. CNN. Truy cập ngày 20 tháng 8 năm 2019.
  69. ^ “We are married!!! I'm the happiest I can be ❤️ I'm so lucky to share my life with this amazing woman”.
  70. ^ AFP Relax (21 tháng 5 năm 2013). “Social media aggregator to host inaugural awards”. Yahoo! News. Lưu trữ bản gốc 31 tháng 10 năm 2013. Truy cập 29 tháng 5 năm 2013.
  71. ^ Jones, Steve (23 tháng 5 năm 2013). “Social Star Awards recognise Bieber, One Direction”. USA Today. Lưu trữ bản gốc 24 tháng 5 năm 2013. Truy cập 23 tháng 5 năm 2013.
  72. ^ Lee, Jan (25 tháng 5 năm 2013). “Aaron Aziz more popular in social media than Fann Wong and Jeanette Aw”. AsiaOne. Lưu trữ bản gốc 21 tháng 6 năm 2013. Truy cập 27 tháng 5 năm 2013.
  73. ^ Ngak, Chenda (9 tháng 4 năm 2013). “Shorty Awards 2013 honors Michelle Obama, Jimmy Kimmel”. CBS News. Lưu trữ bản gốc 12 tháng 4 năm 2013. Truy cập 15 tháng 4 năm 2013.
  74. ^ Vulpo, Mike (10 tháng 8 năm 2014). “2014 Teen Choice Awards: The Fault in Our Stars Win Big, Maid in Manhattan Reunion & More Highlights”. E! Online. Lưu trữ bản gốc 11 tháng 8 năm 2014. Truy cập 11 tháng 8 năm 2014.
  75. ^ “Annual Streamy Awards Nominees lần thứ 4”. Streamy Awards. Lưu trữ bản gốc 24 tháng 9 năm 2014. Truy cập 20 tháng 9 năm 2014.
  76. ^ Arce, Nicole (28 tháng 10 năm 2014). “Golden Joystick Awards 2014: The winners are...”. Tech Times. Lưu trữ bản gốc 13 tháng 2 năm 2017. Truy cập 13 tháng 2 năm 2017.
  77. ^ Steiner, Amanda Michelle (16 tháng 8 năm 2015). “Teen Choice Awards 2015: See the full list of winners”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc 17 tháng 8 năm 2015. Truy cập 17 tháng 8 năm 2015.
  78. ^ a b “5th Annual Nominees”. Streamy Awards. Lưu trữ bản gốc 16 tháng 8 năm 2015. Truy cập 17 tháng 8 năm 2015.
  79. ^ Hurley, Leon (30 tháng 10 năm 2015). “The Golden Joystick Awards: all the winners this year”. GamesRadar+. Lưu trữ bản gốc 15 tháng 1 năm 2016. Truy cập 13 tháng 2 năm 2017.
  80. ^ “YouTuber of The Year”. Shorty Awards. Lưu trữ bản gốc 27 tháng 11 năm 2016. Truy cập 15 tháng 1 năm 2017.
  81. ^ “People's Choice Awards 2017: Full List of Nominees”. People's Choice Awards. Bản gốc lưu trữ 17 tháng 11 năm 2016. Truy cập 15 tháng 1 năm 2017.
  82. ^ Todd Spangler (ngày 3 tháng 12 năm 2018). “PewDiePie Zooms Past 73 Million YouTube Subscribers as Fans Rally to Keep Him Ahead of T-Series”. Variety. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2019.
  83. ^ “YouTube Rewind 2018 but it's actually good”. PewDiePie. YouTube. ngày 27 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 1 tháng 2 năm 2019.
  84. ^ “Congratulations”. PewDiePie. YouTube. ngày 31 tháng 3 năm 2019. Truy cập ngày 31 tháng 3 năm 2019.
Nguồn video và danh sách phát chính

Trong văn bản, các nguồn tham khảo này được đặt trước bởi dấu (‡):

  1. ^ a b PewDiePie (ngày 24 tháng 11 năm 2016). I WAITED 4 YEARS FOR THIS!!!!. PewDiePie. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 11 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2016.
  2. ^ PewDiePie (ngày 11 tháng 6 năm 2016). THE DIAMOND PLAYBUTTON (Part 3). PewDiePie. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 11 tháng 6 năm 2016.
  3. ^ PewDiePie (27 tháng 6 năm 2014). I Google Myself. PewDiePie. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 6 năm 2016. Truy cập ngày 6 tháng 2 năm 2020.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/PewDiePie