Wiki - KEONHACAI COPA

Năm việc của Đại Thiên

Năm việc của Đại Thiên (chữ Hán: 大天五事, Đại Thiên ngũ sự) là danh xưng theo truyền thống để chỉ năm yếu tố (sa. पञ्चवस्तु, pañcavastu) về tính chất của A-la-hán, được tài liệu "Phát trí luận" (sa. Jñānaprasthāna) của Nhất thiết hữu bộ ghi chép đầu tiên [1], và "Đại Tỳ-bà-sa luận" gán cho là những quan điểm của Tì-kheo Đại Thiên (大天; sa. महादेव, Mahādeva) từ đó gây ra sự phân liệt trong tăng-già nguyên thủy. "Đại tỳ-ba-sa luận" cũng cho rằng chính những người ủng hộ Năm việc đã thành lập nên Đại chúng bộ, và "Dị bộ tông luân luận" cho rằng sự phân liệt đầu tiên này xảy ra khoảng một trăm năm sau khi Đức Phật nhập niết-bàn.

Năm việc[sửa | sửa mã nguồn]

Kātyāyanīputra, tác giả "Phát trí luận", được cho là người đầu tiên đã ghi nhận lại năm điều[1]. "Đại tỳ-ba-sa luận" đã gọi "Năm điều" là những "tà kiến do các nhà sư giả hiệu gây ra"[2], đồng thời đưa ra cách giải thích cũng như bác bỏ luận điển của 5 điều.

"Dị bộ tông luân luận" tóm tắt 5 điều này trong bài kệ sau (ghi theo bản dịch Hán văn của Huyền Trang):[3]

餘所誘無知,
Dư sở dụ vô tri,
猶豫他令入,
Do dự tha linh nhập,
道因聲故起,
Đạo nhân thinh cố khởi,
是名真佛教.
Thị danh chơn Phật giáo.
Kệ tụngGiải thích
Dư sở dụ[4]
(parūpahāra)
Mặc dù A-la-hán không có phiền não và sự bất tịnh do phiền não gây ra, nhưng vì ma quỷ cám dỗ Phạm thiên nên vẫn có thể có những thứ bất tịnh như tiểu tiện, tiện lợi, nước bọt, v.v... làm vấy bẩn y phục của vị ấy, giống như nước rỉ.
Vô tri
(aññāṇa)
Có hai loại vô tri: ô nhiễm và vô nhiễm, một vị A-la-hán đã đạt được trí tuệ và tri kiến ​​không thấm nhiễm, và dù vô tri ô nhiễm đã được cắt bỏ, vẫn có thể có vô tri vô nhiễm.
Do dự
(kaṅkhā)
Có hai loại nghi ngờ: nghi ngờ "giống như đang ngủ" (随眠性, tùy miên tính) và nghi ngờ "là người hay là cây cối" (是人是杌, thị nhân thị ngột).[5][6] Ai thấy được sự thật thì nhận ra không có rò rỉ, cắt đứt phiền não nghi ngờ. Tuy nhiên vẫn có thể còn nghi ngờ về những thứ thế gian, chẳng hạn như nghi ngờ cây cối là người.
Tha linh nhập
(paravitāraṇa)
Người có căn cơ mạnh mẽ cũng phải nương vào nghiệp của người khác mới nhập Đạo, người có căn cơ trí tuệ mạnh mẽ như Xá-lợi-phấtMục-kiền-liên cũng phải nhờ vào sự giác ngộ của tôn giả A-thuyết-thị mới có thể quy y Phật pháp.
Đạo nhân thinh cố khởi
(dukkhāhāro maggaṅgaṃ)
Những người tu tập đã nhiều kiếp, sắp thành chính quả vẫn nhập Đạo, chứng quả ẩn dật ngay sau khi nghe Phật dạy như “khổ và tánh không”.

"Phát trí luận" phản bác rằng "do sở dụ" (parūpahāra) và "đạo nhân thinh cố khởi" (dukkhāhāro maggaṅgaṃ) đều là thuộc giới cấm thủ kiến; còn "vô tri" (aññāṇa), "do dự" (kaṅkhā) và "tha linh nhập" (paravitāraṇa) là những tà kiến. Những kiến giải này đều phỉ báng thành tựu của các vị A-la-hán.

Sự phân liệt đầu tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Những yếu tố trong Năm việc được cho là đã gây nên những mâu thuẫn khen chê và tranh chấp học thuật giữa nhóm tăng sĩ ở Magadha. Trong đó, số tăng sĩ ủng hộ Năm việc chiếm đa số, do đó, các tăng sĩ thiểu số đã di chuyển đến Kashmira để hành đạo[7], khởi đầu cho việc phân chia thành các bộ phái Trưởng lão bộĐại chúng bộ. "Dị bộ tông luân luận" (bản dịch của Huyền Trang) ghi lại rằng sự chia rẽ này xảy ra vào thời đại của Ashoka.

Khoảng hơn 200 năm sau khi Đức Phật diệt độ, Vương quốc Kasmira đã ủng hộ nhóm tăng sĩ Trưởng lão bộHimalaya, vốn có thiên hướng về Năm việc, hình thành nhóm tăng sĩ Tuyết Sơn bộ.[8] Nhóm tăng sĩ Trưởng lão bộ còn lại thiên về quan điểm của Phát trí luận, hình thành nhóm Nhất thiết hữu bộ.[9] Các nhóm bộ phái vẫn tiếp tục được hình thành sau đó. Tài liệu "Dị bộ tông luân luận" ghi lại rằng trong các bộ phái, các nhóm ủng hộ Năm việc bao gồm: Đại chúng bộ, Đa văn bộ, Chế Đa Sơn bộ, Tây Sơn trú bộ, Bắc Sơn trú bộTuyết Sơn bộ.

Đại Thiên là ai?[sửa | sửa mã nguồn]

Theo thuyền thống Thượng tọa bộ, người đề ra Năm việc là Tì-kheo Đại Thiên (Mahādeva), một trong những trưởng lão cao cấp của Tăng đoàn khi đó. Bản dịch "Đại tỳ-ba-sa luận" của Huyền Trang cho biết rằng vào thời điểm này, tại chùa Kỳ Viênthành Pāṭaliputra của Magadha, tất cả các trưởng lão có địa vị cao hơn Đại Thiên đều đã viên tịch[10], vì vậy Đại Thiên được xem là lãnh đạo cao nhất của Tăng đoàn lúc bấy giờ. Tuy nhiên, những kiến giải về Năm việc của Đại Thiên tuy được các tăng nhân trẻ chấp nhận nhưng gặp sự phản đối kịch liệt của các trưởng lão. Dù vậy, do số tăng nhân ủng hộ Năm việc chiếm đa số, nên nhà vua đã khiển trách các tăng sĩ thiểu số. Để bảo vệ quan điểm của mình, các tăng sĩ thiểu số, mà hầu hết có địa vị trưởng lão, đã di chuyển đến Kashmira hình thành cộng đồng tăng-già riêng, tự xưng là "Nhóm của những bậc trưởng lão" (Sthaviravāda). Phe đa số còn lại, từ đó có danh xưng là "Nhóm của đại chúng" (Mahāsāṅghika).

Tuy vậy. ở một số tài liệu khác cũng có những ghi chép tương tự về Năm việc, như trong "Luận sự" của Xích đồng diệp bộ của hệ Phật giáo Nam truyền, nhưng không đề cập đến nhân vật Đại Thiên. Đại sư Phật Âm nhận xét rằng các chi tiết "do sở dụ" và "đạo nhân thinh cố khởi" là những tà chấp từ Đông Sơn trú bộ (Pubbaseliyā) và Tây Sơn trú bộ (Aparaseliyā), còn "vô tri", "do dự" và "tha linh nhập" là những tà chấp của Đông Sơn trú bộ. Các luận điểm về Năm việc, cùng với những tranh luận về “bất tịnh thung ngoại nhân dụ hoặc xuất” và “bất tịnh thung nội nhân phiền não xuất”, được ghi chép lại trong bộ luận Tỳ-ni-mẫu kinh của Tôn giả Saputra của Nhất thiết hữu bộ trong Luật tạng[11]. "Dư sở dụ" là một ví dụ cụ thể sự khác biệt cơ bản về tông nghĩa "A-la-hán vô thoái nghĩa" của Đại chúng bộ cùng Phân biệt thuyết bộ[12]; và "A-la-hán hữu thoái nghĩa" của Nhất thiết hữu bộ.[13] Tất cả đều không đề cập đến nhân vật Đại Thiên!

Trong một khảo cứu năm 2007, Thượng tọa Thích Giác Dũng đã dẫn chứng các tài liệu chủ yếu như sau:

Tài liệuBản dịch tham chiếuTóm tắtKết luận
Luận sự
(pi. Kathàvatthu)
Bản dịch tiếng Việt "Bộ Ngữ tông" của Tâm An-Minh TuệNăm việc dẫn đến sự phân phái trong nội bộ của Đại chúng bộKhông có ai cụ thể là tác giả của Năm việc.
Dị bộ tông luân luận
(sa. Samaya bhedoparacanacakra)
Bản dịch Tạng ngữ "Gshung lugs kyi bye brag bkod pa'i 'khor lo" của Dharmàkara và Bzang SkyongKhông có ai cụ thể là tác giả của Năm việc. Nhân vật Đại Thiên chỉ xuất hiện khoảng hai trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt.
Bản dịch chữ Hán "Thập bát bộ luận", dịch giả chưa rõNăm việc dẫn đến sự phân chia Đại chúng bộ và Trưởng lão bộNgười đề xuất Năm việc không phải là Đại Thiên. Nhân vật Đại Thiên chỉ xuất hiện khoảng hai trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt.
Bản dịch chữ Hán "Bộ chấp dị luận", dịch giả Chân Đế (Paramārtha)Năm việc do ngoại đạo đề xuất. Nhân vật Đại Thiên chỉ xuất hiện khoảng hai trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt.
Bản dịch chữ Hán "Dị bộ tông luân luận", dịch giả Huyền TrangNăm việc do Đại Thiên đề xuất. Có 2 nhân vật Đại Thiên: Đại Thiên đề xuất Năm việc và Đại Thiên chỉ xuất hiện khoảng hai trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt.
Phát trí luận
(sa. Jñānaprasthāna)
Bản dịch chữ Hán "A-tì-đàm Bát-kiền-độ luận", dịch giả Tăng-già-đề-bà (Saṃghadeva) và Trúc Phật NiệmNăm việc là những ác kiến và được đoạn trừ bằng Tứ đế.Không đề cập đến Đại Thiên
Bản dịch chữ Hán "A-tì-đạt-ma Phát trí luận", dịch giả Huyền Trang
Đại Tì-bà-sa luận
(sa. Abhidharma-mahavibhasa-sastra)
Bản dịch chữ Hán "Tì-bà-sa luận", dịch giả Tăng-già-bạt-trừng (Saṃghabhuti)Không đề cập đến Năm việc
Bản dịch chữ Hán "A-tì-đàm Tì-bà-sa luận", dịch giả Phù-đà-bạt-ma (Buddhavarman) và Đạo Thái
Bản dịch chữ Hán "A-tì-đạt-ma Đại Tì-bà-sa luận", dịch giả Huyền TrangNăm việc là những ác kiến.Người đề xuất Năm việc là Đại Thiên.

Sư kết luận "không có nhân vật Đại Thiên sinh sau đức Phật nhập diệt một trăm năm""Chỉ có một nhân vật Đại Thiên ra đời sau đức Phật nhập diệt hai trăm năm và là người làm phát sinh các bộ phái ngọn trong Đại chúng bộ".[14] Điều này phù hợp với nhận định của một số học giả hiện đại, vốn cho rằng sự liên kết của Đại Thiên (Mahādeva) với cuộc phân pháo đầu tiên là một sự suy diễn về sau của các bộ phái.[15] Jan Nattier và Charles Prebish viết:

Mahādeva không liên quan gì đến sự chia rẽ ban đầu giữa Đại chúng bộ và Trưởng lão bộ, nổi lên trong một giai đoạn lịch sử muộn hơn đáng kể so với giả định trước đây, và thay thế vào đó là vai trò của mình trong cuộc chia rẽ nội bộ của Đại chúng bộ, vốn đã tồn tại rồi.[16]

Nghiên cứu học thuật[sửa | sửa mã nguồn]

Theo một số nghiên cứu, Năm việc của Đại Thiên nhằm cho rằng công đức của bậc A-la-hán là không viên mãn, thiên hướng gần với giáo lý của Đại thừa về sau. Trong Năm việc, thị các yếu tố "vy dư sở dụ", "do hữu vô tri", "diệc hữu do dự" đều là những khuynh hướng tập khí, tác động vào tâm thức duy nhất của Đại thừa, là “hạt giống” của sự học và học thuyết "bất nhiễm ô vô tri".[17]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b 發智論》:「
    • 諸起此見:有阿羅漢,天魔所嬈,漏失不淨。此於五見,何見攝?見何諦斷此見耶?答:非因計因,戒禁取攝,見苦所斷。
    • 諸起此見:有阿羅漢,於自解脫,猶有無知。此於五見,何見攝?見何諦斷此見耶?答:諸阿羅漢,無漏智見,邪見攝,見道所斷。
    • 諸起此見:有阿羅漢,於自解脫,猶有疑惑。此於五見,何見攝?見何諦斷此見耶?答:諸阿羅漢,越度疑惑,邪見攝,見道所斷。
    • 諸起此見:有阿羅漢,但由他度,此於五見,何見攝?見何諦斷此見耶?答:諸阿羅漢,無障無背,現量慧眼,身證自在,邪見攝,見道所斷。
    • 諸起此見:道及道支, 苦言所召。此於五見,何見攝?見何諦斷此見耶?答:非因計因,戒禁取攝,見苦所斷。」
  2. ^ 大毘婆沙論》:「『諸起此見:有阿羅漢,天魔所嬈,漏失不淨,乃至廣說。』問:何故作此論?答:為欲分別,佛涅槃後,假名苾芻,所起惡見,令有智者,知而制之,故作斯論。」
  3. ^ Dị bộ tông luân luận. Đại Tạng 49, số: 2031, trang 15a
  4. ^ 十八部論》:「從他饒益()。無知。疑。由觀察。言說得道。」
  5. ^ 康熙字典》:「杌……音兀。【玉篇】木無枝也。【集韻】木短出貌。」
  6. ^ 阿毘曇毘婆沙論》:「復次若永斷二種疑。謂是人是杌疑及使性疑。是名為佛。聲聞辟支佛。雖斷使性疑。不斷是人是杌疑。」
  7. ^ 大毘婆沙論》:「彼便自誦所造伽他。爾時眾中。有學無學多聞持戒修靜慮者。聞彼所說無不驚訶。咄哉愚人寧作是說。此於三藏曾所未聞。咸即對之翻彼頌曰。餘所誘無知。猶豫他令入。道因聲故起。汝言非佛教。於是竟夜鬪諍紛然。乃至終朝朋黨轉盛。城中士庶乃至大臣。相次來和皆不能息。王聞自出詣僧伽藍。於是兩朋各執己誦。時王聞已亦自生疑。尋白大天。孰非誰是我等今者當寄何朋。大天白王。戒經中說若欲滅諍依多人語。王遂令僧兩朋別住。賢聖朋內耆年雖多而僧數少。大天朋內耆年雖少而眾數多。王遂從多依大天眾。訶伏餘眾。事畢還宮。爾時鷄園諍猶未息後隨異見遂分二部。一上座部。二大眾部。時諸賢聖知眾乖違。便捨鷄園欲往他處。諸臣聞已遂速白王。王聞既瞋便勅臣曰。宜皆引至殑伽河邊。載以破船中流墜溺。即驗斯輩是聖是凡。臣奉王言便將驗試。時諸賢聖各起神通。猶如雁王陵虛而往。復以神力攝取船中同捨鷄園未得通者。現諸神變作種種形相。次乘空西北而去。王聞見已深生愧悔。悶絕躃地水灑乃蘇。速即遣人尋其所趣。使還知在迦濕彌羅。復固請還僧皆辭命。王遂總捨迦濕彌羅國。造僧伽藍安置賢聖眾。隨先所變作種種形。即以摽題僧伽藍號。謂鷄園等數有五百。復遣使人多齎珍寶營辦什物而供養之。由是爾來此國多有諸賢聖眾任持佛法。相傳制造于今猶盛。」
  8. ^ 窺基異部宗輪論述記》:「有阿羅漢為餘所誘等五事。本上座部為此五事與大眾諍。所以分出。今復許立。何乖本旨。初與大眾乖諍之時尚未立此。至三百年滿與說一切有諍。說一切有得本宗故無五事。舊上座弟子失本所宗乃立五事。是知年淹日久聖隱凡生。新與舊殊。復何怪也。」「上座部本弘經藏。以為上首。以律對法為後弘宣。非是不弘律及對法。然不以為首。至三百年初。迦多衍尼子出世於上座部出家。先弘對法後弘經律。既乖上座本旨。所以鬬諍紛紜。名少乖諍。不同大天大乖諍也。又解。未必此時迦多衍尼子生。但執義不同。遂為乖諍。且如大天五事。上座猶行。此時之中。有不許者。既乖本旨。所以遂分兩部。」
  9. ^ 真諦譯《婆藪槃豆法師傳》:「佛滅度後五百年中有阿羅漢。名迦旃延子。母姓迦旃延從母為名。先於薩婆多部出家。本是天竺人後往罽賓國。罽賓在天竺之西北。與五百阿羅漢及五百菩薩。共撰集薩婆多部阿毘達磨。製為八伽蘭他。即此間《八乾度》。伽蘭他譯為結。亦曰節。」
    道梴毘婆沙序》:「自釋迦遷暉。六百餘載。時北天竺有五百應真。以為靈燭久潛。神炬落耀。含生昏喪。重夢方始。雖前勝迦栴延撰阿毘曇以拯頹運。而後進之賢尋其宗致。儒墨競構。是非紛拏。故乃澄神玄觀。搜簡法相。造《毘婆沙》。抑止眾說。或即其殊辯。或標之銓評。」
  10. ^ 大毘婆沙論》:「大天於後集先所說。五惡見事。而作頌言。餘所誘無知。猶豫他令入。道因聲故起。是名真佛教。於後漸次鷄園寺中。上座苾芻多皆滅歿。十五日夜布灑他時。次當大天昇座說戒。」
  11. ^ 毘尼母經》:「尊者薩婆多說曰:『若比丘,得世俗定,從四禪起;天魔作女形,惑亂其心,此比丘即共行不淨;行已即悔,無覆藏心,念念相續,無一念隱,亦心中不樂捨法服;如此人者,應當從僧乞滅除波羅夷羯磨;僧與此人白四除波羅夷罪羯磨,此人得戒已,如僧告勅:盡形奉行,不得作和尚阿闍梨,不得作教授尼師,僧集時不得說戒,一切法事得聽,在大僧下坐,不得與僧連草食。』」
  12. ^ 異部宗輪論》:「此中大眾部。一說部。說出世部。雞胤部。本宗同義者。謂四部同說。……預流者有退義。阿羅漢無退義。」「其化地部本宗同義。……預流有退。諸阿羅漢定無退者。」「其法藏部本宗同義。……阿羅漢身皆是無漏。」
  13. ^ 異部宗輪論》:「說一切有部本宗同義者。……預流者無退義。阿羅漢有退義。」
  14. ^ Giác Dũng, Đại Thiên là ai?. 2007
  15. ^ Walser, Joseph. Nāgārjuna in Context: Mahāyāna Buddhism and Early Indian Culture. 2005. p. 50
  16. ^ Williams, Jane, and Williams, Paul. Buddhism: Critical Concepts in Religious Studies, Volume 2. 2005. p. 188
  17. ^ 釋悟殷 (1998年10月). “讀《大毘婆沙論》劄記 論師的聖果觀(一)”. 弘誓雙月刊 (第35期). Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 8 năm 2020. Truy cập ngày 29 tháng 6 năm 2015. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |date= (trợ giúp)

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/N%C4%83m_vi%E1%BB%87c_c%E1%BB%A7a_%C4%90%E1%BA%A1i_Thi%C3%AAn