Wiki - KEONHACAI COPA

Mossad

Mossad
Viện Tình báo và Đặc nhiệm
מדינת ישראל
הַמוֹסָד למודיעין ולתפקידים מיוחדים

الموساد للاستخبارات والمهام الخاصة
"Không có lãnh đạo, dân tộc sẽ sụp đổ, nhưng nhờ có nhiều cố vấn mà được an toàn." (Châm ngôn XI:14)
Tổng quan Cơ quan
Thành lập13 tháng 12, 1949 làm Viện nghiên cứu Phối hợp trung ương
Trụ sởTel Aviv, Israel
Số nhân viên7,000 (est)
Ngân quỹ hàng năm10 tỷ shekels (ước tính)
(US$2.73 tỷ)
Lãnh đạo Cơ quan
Trực thuộc cơ quanPhủ Thủ tướng
WebsiteTrang web chính thức

Mossad (tiếng Hebrew: הַמוֹסָד; tiếng Ả Rập: الموساد, n.đ.'Viện'), tên đầy đủ là Viện Tình báo và Đặc nhiệm (tiếng Hebrew: המוסד למודיעין ולתפקידים מיוחדים, HaMossad leModiʿin uleTafkidim Meyuḥadim) là cục tình báo của Israel, một trong các tổ chức chính trong Ngành Tình báo Israel cùng Aman (tình báo quân sự) và Shin Bet (nội an).

Mossad phụ trách thu thập tình báo, nhiệm vụ bí mật và chống khủng bố và tách riêng với các cơ quan dân chủ của Israel, thường mô tả là nước ngầm bởi không có luật lệ quy định lý do, mục đích, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn hay ngân sách của cơ quan, trong khi hiến luật Israel thì không được áp dụng.[1] Viện trưởng tình báo phụ trách trực tiếp và chỉ trước Thủ tướng. Cơ quan ước tính có ngân sách mười tỷ shekels (US$2.73 tỷ) và tuyển dụng tầm 7,000 trực tiếp, là cơ quan gián điệp lớn thứ hai trong phương Tây, sau Cục Tình báo trung ương Hoa Kỳ.[2]

Tổ chức[sửa | sửa mã nguồn]

Văn phòng hành chính[sửa | sửa mã nguồn]

Cơ quan lớn nhất của Mossad là Cục thu thập đảm nhiệm nhiều khía cạnh gián điệp hải ngoại, nhân viên Cục thu thập hoạt động dùng nhiều lớp vỏ, bao gồm ngoại giao và không chính thức.[3] Cục Liên lạc và Hoạt động chính trị phụ trách làm việc với các cơ quan tình báo nước ngoài đồng minh và các nước không có quan hệ ngoại giao bình thường với Israel.[3] Ngoài ra còn có Cục Nghiên cứu để cung cấp tình báo và Cục Công nghệ có nhiệm vụ phát triển dụng cụ cho các hoạt động Mossad.[4]

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Mossad thành lập ngày 13 tháng 12 năm 1949, lấy tên Viện nghiên cứu Phối hợp trung ương theo đề nghị cho Reuven Shiloah của Thủ tướng David Ben-Gurion, ông muốn có cơ quan trung ương để phối hợp, cải thiện hợp tác giữa các cơ quan an ninh sẵn có, là cục tình báo của quân đội, cơ quan nội an và "cục chính trị" của bộ ngoại giao. Tháng 3 năm 1951, Mossad tái thiết thành một phần phủ thủ tướng báo cáo trực tiếp thủ tướng.

Châm ngôn[sửa | sửa mã nguồn]

Châm ngôn cũ của Mossad, be-tachbūlōt ta`aseh lekhā milchāmāh (בתחבולות תעשה לך מלחמה), trích dẫn từ Kinh thánh (Châm ngôn 24:6): "Con phải nhờ sự chỉ dẫn khôn ngoan mà đánh giặc, nhờ có nhiều cố vấn mà chiến thắng" (RVV11), sau đổi thành đoạn Châm ngôn khác: be-'éyn tachbūlōt yippol `ām; ū-teshū`āh be-rov yō'éts (באין תחבולות יפול עם, ותשועה ברוב יועץ, Châm ngôn 11:14), theo RVV11 dịch là: "Không có lãnh đạo, dân tộc sẽ sụp đổ, nhưng nhờ có nhiều cố vấn mà được an toàn."

Đơn vị chống khủng bố[sửa | sửa mã nguồn]

Metsada[sửa | sửa mã nguồn]

Metsada là đơn vị đảm nhiệm tấn công kẻ thù, gồm "các đơn vị chiến binh nhỏ" nhiệm vụ bao gồm "ám sát và phá hoại".[5]

Kidon[sửa | sửa mã nguồn]

Kidon là đơn vị thuộc về cơ quan Caesarea (một trong tám cơ quan Mossad), Yaakov Katz mô tả là "nhóm thích khách chuyên nghiệp ưu tú hoạt động trong nhánh Caesarea của tổ chức gián điệp. Không có nhiều tin về đơn vị bí ẩn này, các chi tiết là những bí mật giấu kín nhất trong ngành tình báo Israel." Kidon tuyển chọn "cựu binh lính từ Sayeret là đơn vị đặc nhiệm ưu tú của quân đội"[6] và là một phần chính sách ám sát của Israel, theo Ronen Bergman dùng nhiều hơn bất kỳ nước nào ở phương Tây sau Thế chiến thứ hai, nói rằng Kidon đã làm ít nhất 2,700 nhiệm vụ.[7][8][9]

Đầu tư mạo hiểm[sửa | sửa mã nguồn]

Mossad đã mở vốn mạo hiểm mà đầu tư các nhóm khởi nghiệp công nghệ cao để phát triển công nghệ mạng mới.[10] Tên của các nhóm sẽ không được công bố.[10]

Nhiệm Vụ Harpoon[sửa | sửa mã nguồn]

Mossad cùng với Shurat HaDin khai mở Nhiệm Vụ Harpoon để "tiêu diệt các mạng lưới tài trợ khủng bố."[11][12]

Viện trưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Nhiệm vụ[sửa | sửa mã nguồn]

Châu Phi[sửa | sửa mã nguồn]

Ai Cập[sửa | sửa mã nguồn]

  • Thu thập tình báo để cắt liên lạc giữa Cảng Said và Cairo năm 1956
  • Gián điệp Mossad Wolfgang Lotz có quốc tịch Tây Đức xâm nhập Ai Cập năm 1957 và thu thập tình báo về các cơ sở tên lửa, công trình quân sự và công nghiệp Ai Cập, cũng lập danh sách nhà khoa học tên lửa Đức làm việc với chính phủ Ai Cập mà gửi vài bom thư. Sau khi nguyên thủ Đông Đức công du Ai Cập, chính phủ Ai Cập bắt giam 30 công dân Tây Đức làm thiện ý; Lotz cho rằng đã bại lộ nên thú nhận các hoạt động gián điệp chiến tranh lạnh.
  • Sau cuộc chạm trán căng thẳng với Trạm trưởng Tel Aviv Cục Tình Báo Trung Ương John Hadden có cảnh báo Hoa Kỳ sẽ giúp phòng vệ Ai Cập nếu Israel tấn công bất ngờ, Viện trưởng Mossad Meir Amit bay đến Washington, D.C. để gặp Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert McNamara, sau báo lại nội các Israel rằng Mỹ cho "đèn xanh bập bùng" tấn công.[13]
  • Thu thập tình báo về Không Quân Ai Cập cho Chiến dịch Focus, cuộc không kích mở đầu của Chiến Tranh Sáu Ngày.
  • Chiến dịch Bulmus 6 — hỗ trợ tình báo cho cuộc tấn công chỉ huy Đảo Xanh, Ai Cập trong Chiến Tranh Tiêu Hao.
  • Nhiệm Vụ Darmocles — cuộc ám sát, hăm dọa các nhà khoa học tên lửa Đức mà Ai Cập thuê để chế tạo tên lửa
    • Một quả bom gởi đến nhà máy tên lửa Heliopolis giết năm công nhân Ai Cập, đồn do Otto Skorzeny thay mặt Mossad.[14]
    • Heinz Krug 49 tuổi là giám đốc công ty cung cấp phần cứng quân sự cho Ai Cập biến mất tháng 9 năm 1962, tin rằng bị Otto Skorzeny ám sát thay mặt Mossad.[10]

Ma Rốc[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 9 năm 1956, Mossad thành lập mạng lưới bí mật ở Ma Rốc để đưa người Do Thái gốc Ma Rốc về Israel sau khi có lệnh cấm di cư đến.[15]

Đầu năm 1991, hai điệp viên Mossad xâm nhập cảng Casablanca và gắn thiết bị theo dõi lên tàu hàng Al-Yarmouk có mang thùng tên lửa Triều Tiên đến Syria, kế hoạch là sẽ bị Không Quân Israel bắn chìm, nhưng Thủ tướng Yitzhak Rabin hủy bỏ.[16]

Tunisia[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1988 vụ giết Khalil al-Wazir (Abu Jihad) là một nhà sáng lập Fatah.[17]

Năm 1991 nghi giết Salah Khalaf là trưởng tình báo Tổ chức Giải phóng Palestine kiêm chỉ huy thứ hai của Fatah sau Yasser Arafat.[18]

Năm 2016 vụ giết đặc công Hamas Mohammad al-Zawahri cáo buộc ở Tunisia, biết đến trong giới an ninh Israel là "Kỹ sư" và là kỹ sư có quan hệ với Hamas tin rằng đang chế tạo máy bay không người lái cho nhóm. Ông bị bắn ở cự ly gần.[19][20]

Uganda[sửa | sửa mã nguồn]

Đối với Nhiệm Vụ Entebbe năm 1976, Mossad cung cấp tình báo về Sân Bay Quốc Tế Entebbe[21] và phỏng vấn rộng rãi các con tin đã được thả.[22]

Nam Phi[sửa | sửa mã nguồn]

Cuối thập niên 90, sau khi được tin về hai đặc công Iran có mặt ở Johannesburg để mua hệ thống vũ khí tân tiến từ Denel, Mossad phái đặc công đi, sau gặp người liên hệ Do Thái địa phương. Giả danh làm tình báo viên Nam Phi, họ bắt cóc hai người, chở đến nhà kho và đánh đập hăm dọa trước khi buộc cả hai phải rời nước.[23]

Sudan[sửa | sửa mã nguồn]

Sau Vụ đánh bom AMIA năm 1994 là lớn nhất trong lịch sử Á Căn Đình, Mossad bắt đầu thu thập tình báo cho Bộ đội Đặc chủng Israel đột kích trả thù đại sứ quán IranKhartoum, nhưng hủy vì lo sợ sẽ đáp lại bằng cuộc tấn công người Do Thái toàn cầu khác. Mossad cũng trợ giúp trong Nhiệm Vụ Moses, sơ tán người Do Thái gốc Ethiopia từ vùng đói kém của Sudan có quan hệ với Ethiopia năm 1984.

Châu Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]

Argentina[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1960, Mossad phát hiện lãnh đạo Quốc Xã Adolf Eichmann đang trốn ở Á Căn Đình và phái đi đội năm người do Shimon Aharon, sau giám sát xác nhận ông đã sống dùng tên Ricardo Klement. Ông bị bắt cóc ngày 11 tháng 5 năm 1960 và đưa đến chỗ trú ẩn, bay về Israel và bị hành quyết sau phiên tòa. Argentina phản đối hành vi xem là xâm phạm chủ quyền, Hội Đồng Bảo An Liên Hợp Quốc nhận xét rằng "các hành vi lặp lại như vậy sẽ vi phạm các nguyên tắc làm cơ sở cho trật tự quốc tế, tạo môi trường bất an và ngờ vực không hợp với việc duy trì hòa bình", trong khi cũng thừa nhận rằng "Eichmann nên đưa ra xét xử vì những tội ác mà ông bị cáo buộc" và "quyết nghị này không nên giải thích là tán thành các tội tày trời mà Eichmann bị tố."[24][25] Mossad từ bỏ kế hoạch thứ hai dự tính bắt Josef Mengele.[26]

Hoa Kỳ[sửa | sửa mã nguồn]

Trong thập niên 90, Mossad phát hiện có tay chân Hezbollah hoạt động trong Hoa Kỳ, mua vật liệu cần thiết để sản xuất thiết bị nổ tự tạo cùng các vũ khí khác, sau cộng tác với tình báo Hoa Kỳ giám sát tay chân, hy vọng rằng sẽ phản bội thêm các tay sai Hezbollah khác, nhưng cuối cùng thì bị bắt.[27]

Tháng 8 năm 2001 Mossad cảnh báo Cục Điều Tra Liên Bang và Cục Tình Báo Trung Ương rằng theo tình báo có đến 200 kẻ khủng bố đã lẻn vào Hoa Kỳ và đang kế hoạch "cuộc tấn công lớn vào Mỹ" và cho Cục Điều tra biết đã đánh hơi được dấu hiệu "mục tiêu quy mô lớn" trong nước, dân Mỹ "rất dễ bị tổn thương."[28] Tuy nhiên, "không rõ chính quyền Mỹ có nghĩ lời cảnh báo đáng tin hay không hoặc có đủ chi tiết để các đội chống khủng bố đưa ra phản ứng." Một tháng sau, kẻ khủng bố tấn công Trung tâm Thương mại thế giới cùng Lầu Năm góc trong cuộc tấn công khủng bố lớn nhất lịch sử.[28]

Uruguay[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1965 Mossad ám sát Herberts Cukurs là cộng sự quốc xã Latvia.[29]

Châu Á[sửa | sửa mã nguồn]

Trung và Tây Á[sửa | sửa mã nguồn]

Theo báo cáo xuất bản trên trang mạng chính thức của quân đội Israel tháng 2 năm 2014, các nước Trung Đông hợp tác với Israel (Mossad) gồm Nước Tù Trưởng A Rập Liên Hợp, A Phú Hãn, Nước Cộng Hòa Azerbaijan, BahrainA Rập Xê Út, cho rằng Bahrain cung cấp Israel tình báo về các tổ chức Iran và Palestine. Báo cáo cũng nói rõ quan hệ hợp tác bí mật ngày càng tăng với A Rập Xê Út, rằng Mossad liên lạc trực tiếp với tình báo Xê Út về kế hoạch năng lượng hạt nhân của Iran.[30][31][32]

Iran[sửa | sửa mã nguồn]

Trước Cách Mạng Iran năm 1978-79, Tổ chức Tình báo và An toàn quốc gia là cảnh sát bí mật thành lập theo chỉ đạo của các tình báo viên Hoa Kỳ và Israel năm 1957.[33][34] Sau khi quan hệ an ninh giữa hai nước trở nên lạnh nhạt hơn đầu thập niên 60, Mossad ngày càng tích cực trong nước mà "huấn luyện quan chức Tổ chức Tình báo An ninh và thi hành nhiều hoạt động chung với nhau"[35] sau khi đội huấn luyện Cục Tình báo Trung Ương rời Iran.

Quan chức tình báo Mỹ nói tờ The Washington Post rằng Israel dàn xếp cho tướng Iran Ali Reza Askari đào tẩu vào ngày 7 tháng 2 năm 2007,[36] phát ngôn viên Israel từ chối. Tờ The Sunday Times đưa tin Askari đã luôn là điệp viên Mossad từ năm 2003, chỉ rời đi sau khi sắp bị bại lộ.[37]

Bộ trưởng Tình báo Iran Heydar Moslehi tố Mossad lên kế hoạch ám sát, giết hại các nhà vật lý học Iran năm 2010, nhưng báo cáo cho biết thông tin vẫn chưa chứng minh được. Kênh truyền hình nước nhà phát lời thú tội từ Majid Jamali-Fashi là người đàn ông Iran quả quyết đã thăm Israel để được Mossad huấn luyện.[38]

Tờ Le Figaro cho rằng Mossad có thể đứng sau vụ nổ tại căn cứ quân sự Iman Ali của Vệ đội Cách mạng Iran ngày 12 tháng 10 năm 2011, giết 18 người và làm thương 10 người khác, trong số tử vong có tướng Hassan Tehrani Moghaddam làm chỉ huy kế hoạch tên lửa của Vệ đội Cách mạng và là nhân vật chủ chốt trong việc xây dựng kế hoạch tên lửa tầm xa của Iran.[39] Căn cứ tin rằng chứa tên lửa tầm xa bao gồm Shahab-3 và cũng có xưởng chứa máy bay, là một trong các căn cứ an toàn nhất Iran.[40]

Mossad bị tố ám sát Masoud Alimohammadi, Ardeshir Hosseinpour, Majid Shahriari, Darioush Rezaeinejad và Mostafa Ahmadi-Roshan, là các nhà khoa học tham gia kế hoạch hạt nhân Iran, cũng nghi đứng sau vụ ám sát hụt nhà khoa học hạt nhân Fereydoon Abbasi.[41] Meir Dagan, là viện trưởng từ năm 2002 đến 2009, tuy không lấy công cho ám sát nhưng tán dương chúng trong cuộc phỏng vấn với nhà báo, nói rằng "việc loại bỏ đầu óc quan trong" từ dự án hạt nhân Iran đã đạt được "đào tẩu trắng," là các nhà khoa học Iran sợ quá mà yêu cầu chuyển sang các dự án dân dụng.[13]

Đầu tháng 2 năm 2012, Viện trưởng Mossad Tamir Pardo gặp các quan chức quốc an Hoa Kỳ ở Washington, D.C. để thăm dò ý kiến về phản ứng Mỹ nếu Israel tấn công Iran phớt lờ phản đối của Hoa Kỳ.[42]

Năm 2018, Mossad đột nhập vào kho lưu trữ tài liệu hạt nhân bí mật của Iran ở Tehran và lấy hơn 100,000 giấy tờ cùng dữ liệu máy tính về Israel, cho thấy Dự án AMAD nhắm phát triển vũ khí hạt nhân.[43] Israel chia sẻ tin với các đồng minh, bao gồm các nước châu Âu và Hoa Kỳ.[44]

Iraq[sửa | sửa mã nguồn]
MiG-21 tại Viện bảo tàng Không quân Israel ở Hatzerim

Mossad giải thoát và hỗ trợ việc đào tẩu của Munir Redfa, là phi công Iraq bay Mig-21 đến Israel năm 1966, là "Nhiệm Vụ Diamond". Toàn bộ gia đình ông cũng được đưa đến Israel từ Iraq. Thông tin trước đấy chưa biết về Mig-21 sau chia sẻ với Hoa Kỳ.

Nhiệm Vụ Sphinx:[45] giữa năm 1978 và 1981, Mossad thu được thông tin bí mật cao về lò hạt nhân Osirak của Iraq bằng cách chiêu dùng nhà khoa học hạt nhân Iraq ở Pháp.

Nhiệm Vụ Bramble Bush II: trong thập niên 90, Mossad bắt đầu trinh sát các địa điểm trong Iraq mà Saddam Hussein có thể bị quân biệt động Sayeret Matkal đưa vào từ Jordan phục kích; sau phải hủy vì Chiến dịch Desert Fox và quá trình hòa bình Israel-A Rập đang tiếp diễn.

Jordan[sửa | sửa mã nguồn]

Benjamin Netanyahu cho phép hoạt động chống Khaled Mashal là đại diện Hamas ở Jordan sau vụ bom tự sát ở Jerusalem ngày 30 tháng 7 năm 1997 giết 1 dân Israel.[46] Ngày 25 tháng 9 năm 1997, Mashal bị tiêm độc tố vào tai (tin là chất dẫn xuất của thuốc phiện tổng hợp Fentanyl tên là Levofentanyl).[47][48] Chính quyền Jordan bắt giam hai điệp viên Mossad giả dạng làm du khách Canada và bẫy thêm sáu người nữa trong đại sứ quán Israel. Để được thả, một bác sĩ Israel phải bay đến Amman và đưa thuốc giải độc cho Mashal. Hậu quả của việc giết hụt dẫn đến Sheik Ahmed Yassin được phóng thích là nhà sáng lập và lãnh đạo tâm linh của phong trào Hamas cùng đống tù nhân Hamas khác. Netanyahu bay đến Amman ngày 29 tháng 9 để đích thân xin lỗi Vua Hussein, nhưng lại được anh trai Hoàng thái tử Hassan đón tiếp.[47]

Lebanon[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1972 gửi bom thư đến Bassam Abu Sharif là thành viên Mặt trận Giải phóng Palestine Nhân dân, thương nghiêm trọng nhưng sống qua.[49]

Năm 1972 giết Ghassan Kanafani là nhà văn Palestine kiêm thành viên Mặt trận Giải phóng bằng bom xe.[50]

Năm 1973 thu thập tình báo cùng hỗ trợ hoạt động trong Nhiệm Vụ Spring of Youth ở Beirut.

Ngày 22 tháng 1 năm 1979 ám sát Ali Hassan Salameh là lãnh đạo Tháng Chín ĐenBeirut bằng bom xe.[51][52]

Năm 1992 cung cấp tình báo cho giết hại Abbas al-Musawi ở Beirut là tổng thư ký Hezbollah.[53]

Năm 2002 nghi giết Jihad Ahmed Jibril ở Beirut là lãnh đạo cánh quân sự của Mặt trận Giải phóng.[54]

Năm 2003 nghi giết Ali Hussein Saleh ở Beirut là thành viên Hezbollah.[55]

Năm 2004 nghi giết Ghaleb Awwali ở Beirut là quan chức Hezbollah cao cấp.[56]

Năm 2006 nghi giết Mahmoud al-Majzoub ở Sidon là lãnh đạo Thánh chiến Hồi giáo Palestine.[57]

Mossad nghi thành lập mạng lưới điệp viên lớn ở Lebanon, chọn từ các cộng đồng Hồi giáo Sunni, Cơ Đốc giáoDruze cùng các quan chức trong chính phủ Lebanon, để gián điệp Hezbollah và các cố vấn Vệ Đội Cách Mạng Iran. Vài đồn đã hoạt động từ Chiến tranh Lebanon năm 1982. Năm 2009, Cục An ninh Lebanon, có đơn vị tình báo Hezbollah hỗ trợ và cộng tác với Syria, Iran và có thể Nga, tiến hành đàn áp dẫn đến bắt giam tầm 100 điệp viên tố "làm việc cho Israel".[58] Trước đấy năm 2006, quân đội Lebanon khám phá mạng lưới nghị ám sát và lãnh đạo Lebanon và Palestine thay mặt Mossad.[59]

Palestine[sửa | sửa mã nguồn]

Caesarea cố ám át lãnh đạo Tổ Chức Giải Phóng Palestine Yasser Arafat trong nhiều năm, sau được Bộ Trưởng Quốc Phòng Ariel Sharon giao cho bộ đội đặc tác phụ trách danh hiệu là "Salt Fish", sau đó đổi tên thành "Nhiệm Vụ Goldfish," thành lập để ám sát Arafat,[60] Ronan Bergman đề nghị dùng ngộ độc phóng xạ để giết.[61]

Syria[sửa | sửa mã nguồn]

Điệp viên Eli Cohen xâm nhập cấp chính phủ cao nhất của Syria, là bạn thân của Tổng thống và được cân nhắc cho chức vụ Bộ trưởng Quốc phòng. Ông đưa cộng sự kế hoạch toàn chỉnh của quốc phòng Syria tại Cao Nguyên Golan, trình tự tác chiến của Quân đội Syria cùng danh sách vũ khí quân đội, cũng lệnh trồng cây tại mọi điểm củng cố lấy cớ che bóng mát cho binh lính, nhưng thật ra là dấu hiệu chỉ điểm cho Quân Quốc phòng Israel. Ông bị tình báo Syria và Liên Xô phát hiện, xét xử bí mật và hành quyết công khai năm 1965.[62] Thông tin của ông có vai trò quan trọng trong Chiến Tranh Sáu Ngày.

Ngày 1 tháng 4 năm 1978, 12 quan chức bí nhiệm, quân đội Syria bị giết bằng thiết bị nghe lén Israel bẫy đặt trên đường điện thoại chính giữa Damascus và Jordan.[63]

Cái chết của Tướng Anatoly Kuntsevich, từ cuối thập niên 90 bị nghi giúp Syria sản xuất khí thần kinh VX được trả số tiền lớn từ chính phủ Syria: ngày 3 tháng 4 năm 2002, Kuntsevich chết một cách bí hiểm trên chuyến bay, có cáo buộc rằng trách nhiệm thuộc về Mossad.[63]

Tháng 9 năm 2004 nghi giết Izz El-Deen Sheikh Khalil bằng bẫy xe hơi ở Damascus, là thành viên cao cấp của cánh quân sự Hamas.[64]

Việc phát giác lò hạt nhân đang xây dựng ở Syria nhờ giám sát quan chức Syria làm việc theo quyền Muhammad Suleiman do Mossad đảm nhiệm, kết quả là bị Không quân Israel phá hủy tháng 9 năm 2007 (xem Nhiệm Vụ Orchard).[63]

Năm 2008 nghi giết Muhammad Suleiman trên bãi biển ở Tartus và bị kẻ bắn tỉa trên thuyền bắn chết, là chủ nhiệm kế hoạch hạt nhân Syria.[65]

Ngày 25 tháng 7 năm 2007, kho chứa vũ khí hóa học al-Safir nổ, giết 15 nhân viên Syria cùng 10 kỹ sư Iran, các nhà điều tra Syria đỗ lỗi phá hoại từ Israel.[63]

Năm 2008 nghi giết Imad Mughniyah bằng cái tựa đầu nổ tung ở Damascus, là lãnh đạo Hezbollah cao cấp đồng mưu vụ đánh bom đại sứ quán Hoa Kỳ năm 1983.[66]

Đầu tháng 8 năm 2010 thi thể phân hủy của Yuri Ivanov tìm thấy trên bãi biển Thổ Nhĩ Kỳ,[67] là Phó Cục trưởng Tổng cục Tình báo Nga, có cáo buộc rằng do Mossad chủ mưu. Ông biến mất trong khi ở gần Latakia, Syria.[68]

Mossad bị tố đứng sau vụ ám sát Aziz Asbar bằng bom xe ở Masyaf ngày 5 tháng 8 năm 2018, nhà khoa học Syria cao cấp đảm nhiệm phát triển kế hoạch tên lửa tầm xa cùng vũ khí hóa học.[69]

Nước tù trưởng A Rập Liên hợp[sửa | sửa mã nguồn]

Mossad bị nghi giết Mahmoud al-Mabhouh tháng 1 năm 2010 ở Dubai, là chỉ huy quân sự Hamas cao cấp. Nhóm thi hành ước tính có ít nhất 26 người di chuyển bằng hộ chiếu giả, theo truyền hình mạch kín cùng các bằng chứng khác. Nhóm người vào phòng khách sạn của al-Mabhouh, ông bị giật điện và tra khảo. Cửa phòng báo là khóa từ bên trong.[70][71][72][73][74] Tuy cảnh sát UAE cùng Hamas tuyên bố Israel chịu trách nhiệm cho vụ giết người, nhưng không hề có bằng chứng trực tiếp liên kết Mossad với tội. Hộ chiếu giả của các điệp viên gồm sáu của Anh, sao chép từ bản thật của dân Anh tại Israel, bị Dubai nghi, năm của Ireland, làm giả theo bản thật của những người đang sống,[75] có hộ chiếu của Úc dẫn đến lo sợ về trả thù nạn nhân trộm cắp danh tính,[76] một hộ chiếu Đức thật và một hộ chiếu Pháp giải. Cảnh sát UAE nói họ có dấu vân tay cùng bằng chứng DNA của vài kẻ tấn công, với quét võng mạc của 11 nghi phạm quay lại ở sân bay Dubai.[77][78] Trưởng cảnh sát Dubai nói "tôi hoàn toàn chắc chắn là Mossad," thêm rằng "tôi đã trình công tố viên Dubai yêu cầu bắt giam (Thủ tướng Israel Benjamin) Netanyahu cùng Viện trưởng Mossad," cho vụ giết người.[79]

Nam và Đông Á[sửa | sửa mã nguồn]

Ấn Độ[sửa | sửa mã nguồn]

Một bài của Rediff năm 2003 tiết lộ Mossad có quan hệ bí mật với Cục Nghiên cứu và Phân tích là cơ quan tình báo nước ngoài của Ấn Độ. Khi Rameshwar Nath Kao thành lập tháng 9 năm 1968, Thủ Tướng đương thời Indira Gandhi khuyên nên vun trồng quan hệ với Mossad, có thể là đối sách với quan hệ quân sự giữa Pakistan và Trung Quốc, cùng với Triều Tiên. Israel cũng lo ngại quân quan Pakistan đang huấn luyện người Iran và Libya và chuyển giao vũ khí Trung Quốc, Triều Tiên.[80]

Pakistan tin rằng mối quan hệ tình báo giữa Ấn Độ và Israel nguy hại an ninh quốc gia. Khi du khách Israel trẻ bắt đầu thăm thung lũng Kashmir đầu thập niên 90 thì nghi là quân quan Israel cải trang đến để giúp lực lượng an ninh Ấn Độ bằng các nhiệm vụ chống khủng bố. Du khách Israel bị tấn công, một bị giết, một bắt cóc; sau áp lực từ công đồng di cư Hồi giáo Kashmir ở Hoa Kỳ dẫn đến được thả, sợ các cuộc tấn công có thể cô lập cộng đồng Do Thái Mỹ mà khiến họ vận động chính phủ Hoa Kỳ chống các nhóm phân ly Kashmir.[80]

Năm 1996, cựu viên chức Nghiên cứu Phân tích R.K. Yadav tố Anand Kumar Verma là cục trưởng giữa 1987 và 1990 về tài sản không cân xứng ở Tòa án cao đẳng Delhi, liệt kê tám tài sản cho rằng Verma mua phi pháp bằng kinh phí không kiểm kê của cơ quan tình báo cho các nhiệm vụ bí mật. Tuy yêu cầu điều tra Cục Điều tra trung ương vào tài sản Verma bị từ chối, Yadav lấy được thêm thông tin theo Luật quyền lợi thông tin vào năm 2005 và thưa vụ kiện khác năm 2009. Năm 2013, Cục Điều tra trung ương tiến hành thẩm tra tài sản của Verma. Việc tố tụng tiết lộ tên của hai công ty do cơ quan tình báo lập năm 1988: Piyush Investments and Hector Leasing và Finance Company Ltd, đều do hai viên chức tình báo cao cấp V. Balachandran và B. Raman lãnh đạo. Balachandran and Raman nghỉ hưu năm 1994 và 1995. Hai công ty niêm yết là sở kinh doanh về nhiều loại khoáng sản, xe cộ, vải, kim loại và phụ tùng, cũng cho rằng sản xuất phim. Công ty mua hai căn nhà ở Gauri Sadan, một tòa dân cư trên Đường Hailey, New Delhi tháng 3 năm 1989 giá 23 lakh.[81]

Tờ India Today báo hai căn nhà đều là nhà an toàn tình báo dùng làm tiền tuyến hoạt động cho các điệp viên Mossad, nơi trạm trưởng Mossad ở giữa năm 1989 và 1992. Có báo rằng Cục Nghiên cứu và Phân tích quyết định có quan hệ chặt chẽ hơn với Mossad, các nhiệm vụ bí mật sau Thủ tướng đương thời Rajiv Gandhi đều phê chuẩn. India Today dẫn "nội mạc Nghiên Phân" nói rằng các đặc công tình báo giấu đặc công Mossad có hộ chiếu A Căn Đình và trao đổi tình báo, chuyên môn về nhiệm vụ, bao gồm thương lượng thả du khách Israel tháng 6 năm 1991 bị các phần tử hiếu chiến của Mặt trận Giải phóng Jammu và Kashmir. Khi hỏi về vụ Verma thì từ chối nói về hai công ty, nhưng cho rằng quan hệ với chúng chỉ có tính chuyên nghiệp mà thôi. Raman nói "đôi khi, các cơ quan gián điệp lập công ty vì lý do nhiệm vụ. Tôi chỉ có thể nói rằng mọi thứ đều có chính phủ phê duyệt, thủ tướng đương thời [Rajiv Gandhi] cùng thư ký nội các phê chuẩn các giấy tờ." Theo Balachandran "đúng là có làm số lượng nhiệm vụ lớn, nhưng ở mọi giai đoạn đều báo cho Ban thư ký Nội các và thủ tướng."[81]

Tháng 11 năm 2015, tờ The Times of India báo các đặc công Mossad và MỊ đang bảo vệ Thủ Tướng Narendra Modi trong chuyến công du đến Thổ Nhĩ Kỳ, trước đấy thăm Anh và có hẹn tham dự Hội đỉnh G-20 năm 2015 ở Antalya, Thổ Nhĩ Kỳ. Tờ báo cho rằng đặc công triệu tập để cung cấp bảo vệ thêm cho chi tiết an ninh của Modi, gồm Nhóm Đặc bảo Ấn Độ cùng mật thám từ Cục Nghiên cứu và Phân tích và Cục Tình báo sau vụ tấn công Paris tháng 11 năm 2015.[82][83]

Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Mossad có thể đã có chân trong thảm họa Ryongchon năm 2004, vài nhà khoa học Syria làm việc cho kế hoạch vũ khí hạt nhân Iran, Syria bị giết và đoàn tàu chở vật liệu phân hạch bị phá hủy.[84]

Pakistan[sửa | sửa mã nguồn]

Trong bài báo tháng 9 năm 2003,[85] Rediff News đưa tin rằng Tướng quân Pervez Musharaf trước là Tổng thống Pakistan quyết định thành lập quan hệ bí mật giữa cơ quan tình báo ISI và Mossad bằng các viên chức của hai cục ở hai đại sứ quán tại Washington, D.C.

Châu Âu[sửa | sửa mã nguồn]

Áo[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1954, sau khi Mossad nhận tình báo sĩ quan Israel có được công nghệ quân sự mật đã tiếp cận viên chức Ai Cập ở châu Âu, định bán tài liệu và bí mật quân sự, một nhóm đặc công Mossad và Shin Bet nhanh chóng cử đi để tìm và bắt cóc ông, sau phát hiện ở Vienna. Nhiệm vụ có mật danh Nhiệm Vụ Bren: đặc công nữ dụ được ông đến cuộc họp bằng chiêu trò ái tình, sau bị bắt cóc, an thần và bay về Israel trên máy bay quân sự Israel. Tuy nhiên, phi cơ phải hạ cánh nạp nhiên liệu, mỗi lẫn ông được tiêm thêm liều an thần mà dẫn đến quá liều tử vong. Khi đến Israel, ông được chôn cất ở biển sau khi phát hiện đã chết, và vụ việc được giữ mật trong nhiều thập niên sau.[86]

Mossad thu thập thông tin về chính khách Áo Jörg Haider bằng một gián điệp.[87]

Bỉ[sửa | sửa mã nguồn]

Mossad bị tố giữ trách nhiệm giết hại kỹ sư kiêm chuyên gia đạn đạo Canada Gerald Bull ngày 22 tháng 3 năm 1990, bị bắn nhiều lần vào đầu ngoài chung cư ở Brussels,[88] cùng lúc ông làm việc cho Iraq về Dự án siêu súng Babylon.[89] Người khác như con trai tin rằng Mossad đang lấy công cho hành vi không làm để dọa bất kỳ ai cố giúp chính quyền kẻ thù; có giả thuyết khác là Bull bị Cục Tình báo trung ương giết. Iraq và Iran cũng thuộc dạng tình nghi.[90]

Bosnia và Herzegovina[sửa | sửa mã nguồn]

Hỗ trợ di tản trên không, đất liền dân Do Thái Bosnia từ Sarajevo chiến loạn đến Israel năm 1992 và 1993.[91]

Cyprus[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1973 vụ giết hại Hussein Al Bashir ở Nicosia, Cyprus vì dính líu với vụ thảm sát Munich.[53]

Pháp[sửa | sửa mã nguồn]

Mossad bị tố trợ giúp cơ quan nội an Ma Rốc trong vụ mất tích chính khách phản đối Mehdi Ben Barka năm 1965.[92]

Kế hoạch Cherbourg — Nhiệm Vụ Noa: đưa lén năm tàu tên lửa hạng Sa'ar 3 ra khỏi Cherboug.

Năm 1972 vụ giết hại Tiến sĩ Mahmoud Hamshari bằng điện thoại bom ở chung cư Paris, là phối hợp viên của vụ thảm sát Munich.[53]

Năm 1973 vụ giết hại Tiến sĩ Basil Al-Kubaissi ở Paris có chân trong vụ thảm sát Munich.[53]

Năm 1973 vụ giết hại Mohammad Boudia ở Paris, là thành viên Mặt Trận Giải Phóng Palestine Nhân Dân.[53]

Ngày 5 tháng 4 năm 1979, đặc công Mossad tin là đã kích hoạt vụ nổ phá hủy 60% số thành phần đang chế tạo ở Toulouse cho lò hạt nhân Iraq. Tuy tổ chức môi trường Groupe des écologistes français chưa từng biết đến nhận trách nhiệm,[45] nhưng các quan chức Pháp bác bỏ; năm 1981 lò hạt nhân bị không kích Israel tiêu hủy.[45][93]

Năm 1979 vụ giết cáo buộc Zuheir Mohsen là thành viên thân Syria của Tổ Chức Giải Phóng Palestine.[94]

Năm 1980 vụ giết hại Yehia El-Mashad là chủ nhiệm kế hoạch vũ khí hạt nhân Iraq.[95]

Việc giết cáo buộc Atef Bseiso ở Paris năm 1992, là tình báo viên cao cấp của Tổ Chức Giải Phóng Palestine. Cảnh sát Pháp tin đội thích khách theo Atef Bseiso từ Berlin, nơi kết nối với đội khác để áp lại gần trước khách sạn Left Bank mà bắn ba phát vào đầu ở tầm gần.[96]

Đức[sửa | sửa mã nguồn]

Lekem-Mossad thi hành Nhiệm Vụ Plumbat (1968) để xúc tiến kế hoạch hạt nhân Israel. Tàu chở hàng Đức "Scheersberg A" biến mất trên đường từ Antwerp đến Genoa cùng với 200 tấn bánh ngọt vàng, sau khi đồn chuyển sang tàu Israel.[97]

Việc gửi bom thư trong Nhiệm Vụ Thiên Phẫn, không gây tử vong trong vài trường hợp; mục đích có lẽ không phải là giết người nhận. Bom thư gởi đến tội phạm chiến tranh quốc xã trốn tránh Alois Brunner nổ banh bốn ngón tay phải năm 1980.[98]

Việc giết cáo buộc Tiến sĩ Wadie Haddad bằng sô-cô-la tẩm độc, chết ngày 28 tháng 3 năm 1978 ở Đông Đức, giả định bởi bệnh bạch cầu. Theo cuốn sách Striking Back do Aharon Klein xuất bản năm 2006, Haddad bị Mossad ám sát bằng cách gởi sô-cô-la Bỉ có tẩm chất độc không thể phát hiện và tác dụng chậm, khiến ông chết vài tháng sau. "Mất một vài tháng mới chết", Klein viết trong sách.[99]

Mossad phát hiện Hezbollah đã chiêu mộ một dân Đức tên Steven Smyrek và ông đang đi đến Israel. Trong nhiệm vụ do Mossad, Cục Tình Báo Trung Ương, Cục Bảo Hiến Liên Bang Đức cùng Shin Bet tiến hành, Smyrek bị giám sát liên tục và bắt giam ngay khi đáp cánh ở Israel.[100]

Hy Lạp[sửa | sửa mã nguồn]

Việc giết hại Zaiad Muchasi bằng vụ nổ trong phòng khách sạn Athens năm 1973, là đại diện Fatah với Cyprus.[53]

Ireland[sửa | sửa mã nguồn]

Vụ ám sát Mahmoud Al-Mabhouh ở Dublin năm 2010 nghi do Mossad làm, là chỉ huy quân sự Hamas cao cấp. Đại sứ quán Israel ở Dublin thu được tám hộ chiếu Ireland giả (sáu có dùng) cho các đặc công Israel sử dụng trong nhiệm vụ. Chính phủ Ireland, phẫn nộ vì hộ chiếu Ireland bị dùng, triệu tập đại sứ Israel đòi lời giải thích và trục xuất nhà ngoại giao Israel chịu trách nhiệm từ Dublin sau cuộc điều tra. Một trong các hộ chiếu có địa chỉ trên Đường Pembroke, Ballsbridge, cũng là đường của đại sứ quán Israel. Tòa nhà trống vắng khi khám xét, nhưng chính quyền Ireland nghi Mossad đã dùng làm nhà an toàn trong quá khứ.[101][102] Có báo Mossad đã lập quan hệ làm việc với Cục Tình Báo Quân Sự[103] là cơ quan tình báo của quân đội Ireland và đã thông báo chính quyền về vận chuyển vũ khí từ Trung Đông đến Ireland vào tay các phần tử cộng hòa dị kỷ, dẫn tới bị bắt chặn và bắt giam.[104]

Ý[sửa | sửa mã nguồn]

Việc giết hại Wael Zwaiter, nghi là thành viên Tháng Chín Đen.[105][106]

Năm 1986, Mossad dùng đặc công bí mật để lùa Mordechai Vanunu bằng phương thức ái dục từ Anh xuống Ý mà bắt cóc, giải về Israel, sau bị xét xử và định tội phản quốc vì vai trò trong việc tiết lộ kế hoạch hạt nhân của Israel.[107]

Malta[sửa | sửa mã nguồn]

Việc giết hại Fathi Shiqaqi bằng nhiều phát đạn vào đầu trước Khách Sạn Diplomat ở Sliema, Malta năm 1995, là lãnh đạo Thánh Chiến Hồi Giáo Palestine.[108]

Na Uy[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày 21 tháng 7 năm 1973, Ahmed Bouchiki bị đặc công Mossad giết, là bồi bàn Ma RốcLillehammer, nhầm là Ali Hassan Salameh, một trong các lãnh đạo Tháng Chín Đen là tổ chức Palestine chịu trách nhiệm vụ thảm sát Munich được trú ẩn ở Na Uy. Đặc công Mossad dùng hộ chiếu Canada giả và làm tức giận chính phủ Canada, sáu bị bắt giam, sau sự kiện biết đến là tai tiếng Lillehammer. Israel bồi thường gia đình của Bouchiki.[107][109][110]

Serbia[sửa | sửa mã nguồn]

Israel cung cấp dân Serb vũ khí trong Chiến Tranh Bosnia, có thể vì khuynh hướng thân Serbia của chính phủ đương thời[111] hoặc để cộng đồng Do Thái Sarajevo được di cư đến Israel.[112] Mossad nghi chịu trách nhiệm cấp vũ khí cho các nhóm Serbia.[113]

Thụy Sĩ[sửa | sửa mã nguồn]

Theo tài liệu bí mật của Cục Tình Báo Trung ƯơngBộ Ngoại Giao Mỹ mà sinh viên Iran phát hiện sau khi chiếm Đại Sứ Quán Mỹ ở Tehran ngày 4 tháng 11 năm 1979:

Thụy Sĩ Israel có Đại Sứ Quán ở Bern cùng Tổng Lĩnh Sự Quán ở Zürich, làm vỏ bọc cho các viên quan Cục Thu Thập có chân trong các nhiệm vụ đơn phương, cũng giữ mối quan hệ chặt chẽ với Thụy Sĩ tại cấp địa phương về các việc công khai như an toàn thân thể cho viên quan với các tổ chức buôn bán Israel trong nước và bảo vệ các chức viên, người Israel viếng thăm. Có hợp tác chặt giữa Israel và Thụy Sĩ về các vấn đề khoa học, kỹ thuật quan hệ đến các nhiệm vụ tình báo và an ninh; viên quan Thụy Sĩ đã làm nhiều chuyến đến Israel, và có dòng người Israel đến và qua Thụy Sĩ liên tục. Tuy nhiên thường do quản lý viên địa khu Liên Lạc và Chính Hành ở Đại Sứ Quán tại Paris sắp xếp trực tiếp cùng Thụy Sĩ, thay vì viên quan ở Đại Sứ Quán Israel tại Bern, tuy vẫn được thông tri.

Tháng 2 năm 1998, năm đặc công Mossad bị bắt nghe lén nhà của Hezbollah ở ngoại ô Bern, bốn được thả, nhưng người thứ năm bị định tội, kết án một năm tù giam và sau khi ra khỏi tù bị cấm vào Thụy Sĩ trong năm năm.[114]

Liên Xô/Nga[sửa | sửa mã nguồn]

Mossad có chân trong việc liên lạc nhóm refuseniks ở Liên Xô trong thời kỳ đàn áp dân Do Thái Nga giữa thập niên 50 và 80, giúp thành lập quan hệ trong Liên Xô và hỗ trợ mua các đồ vật tôn giáo Do Thái bị chính phủ Liên Xô cấm, ngoài việc đưa thông tin ra vào Liên Xô. Nhiều học trò Do Thái từ các nước phương Tây đi đến Liên Xô trong kết hoạch thành lập, duy trì liên lạc với nhóm refuseniks.

Ukraine[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 2 năm 2011, kỹ sư Palestine Dirar Abu Seesi nghi bị đặc công Mossad bắt cóc trên chuyến tàu từ Kharkiv đến thủ đô Kiev. Ông dự định xin quốc tịch Ukraine, sau tái xuất trong nhà tù Israel chỉ ba tuần sau sự kiện.[115]

Châu Đại Dương[sửa | sửa mã nguồn]

New Zealand[sửa | sửa mã nguồn]

Tháng 7 năm 2004, New Zealand chế tài ngoại giao Israel vì tai tiếng là hai người Israel ở Australia Uriel Kelman và Eli Cara, nghi làm việc cho Mossa, cố thu thập một cách phi pháp hộ chiếu New Zealand bằng cách giả danh một người khuyết tật nặng. Bộ Trưởng Ngoại Giao Israel Silvan Shalom sau xin lỗi New Zealand vì hành vi họ. New Zealand hủy vài hộ chiếu khác nghi đặc công Israel giữ.[116] Kelman lẫn Cara phục hình nửa bản án sáu tháng, khi được thả thì bị trục xuất về Israel. Người Israel Ze'ev Barkan và New Zealand David Reznick tin là dính líu với tai tiếng hộ chiếu nhưng rời nước được trước khi bị bắt giam.[117]

Trong hư cấu[sửa | sửa mã nguồn]

Phim (bao gồm phim truyền hình)

  • Phim Sword of Gideon (1986) và Munich (2005) có đặc công Mossad trả thù Tháng Chín Đen sau vụ thảm sát Munich.
  • The Impossible Spy (1987) là phim truyền hình về điệp viên hàng đầu Eli Cohen.
  • Trong phim Swordfish (2001), nhân vật chính Gabriel Shear (John Travolta thủ vai) tin là đặc công Mossad.
  • The Red Sea Driving Resort (2019) lấy cảm hứng từ sự kiện của Nhiệm Vụ Moses và Nhiệm Vụ Joshua (gọi chung là Nhiệm Vụ Brothers) bí mật di chuyển dân Do Thái Ethiopia từ trại tị nạn ở Sudan đến Israel.
  • Phim The House on Garibaldi Street (1979) và Operation Finale (2018) về việc dẫn xuất tội phạm chiến tranh Quốc Xã Adolf Eichmann từ Á Căn Đình do Mossad chỉ đạo.

Văn học

(Theo thứ tự bảng chữ cái theo họ tác giả)

  • Trong tiểu thuyết Honour Among Thieves (1993) của Jeffrey Archer, nhân vật chính nữ là đặc công Mossad.
  • Trong quyển thứ tư của bộ sách Gray Man Dead Eye của Mark Greaney, Mossad hợp tác với Cục Tình Báo Trung Ương để bắt Courtland Gentry, đặc công bí nhiệm lưu manh nguy hiểm, đáng sợ nhất.
  • Bộ sách điệp viên bán chạy của Daniel Silva xoay quanh Gabriel Allon là đặc công, thích khác Mossad hư cấu. Từ "Mossad" không thấy dùng trong tiểu thuyết, nhưng nhân vật chính mô tả là làm việc cho cơ quan tình báo của Israel (nhân vật gọi là "Cục").
  • Trong tiểu thuyết Exodus (1958) của Leon Uris, nhân vật chính Ari Ben Canaan là đặc công Mossad.
  • Tiểu thuyết The Little Drummer Girl (1983) của John Le Carre mô tả nhiệm vụ Mossad hư cấu chống khủng bố Palestine.

Truyền hình

(Theo thứ tự bảng chữ cái)

  • Trong bộ truyền hình nhiều tập The Blacklist (2013-hiện tại), đặc công Mossad Samar Navabi (Mozhan Marnò thủ vai) là một nhân vật phụ
  • Trong bộ truyền hình nhiều tập Covert Affairs (2010-2015), đặc công Mossad Eyal Lavin là nhân vật lặp lại.
  • Từ tập "Kill Ari (Phần 1)" của mùa ba NCIS (2005), Mossad có vai trò chủ chốt, gồm một trong các nhân vật chính, Đặc Công Ziva David là cựu Đặc Công Mossad, ban đầu giữ chức vụ liên lạc với NCIS đến cuối mùa 7, khi trở thành đặc công NCIS toàn thời. Cha tên Eli David là viện trưởng Mossad cho đến tập "Shabbat Shalom" mùa 10 khi bị giết. Nhiều nhân vật khác cũng từ Mossad, bao gồm Michael Rivkin và Ari Haswari. Vài tập diễn ra ở Israel.
  • The Spy (2019) là tập phim ngắn truyền hình mạng về cuộc sống của điệp viên Mossad hàng đầu Eli Cohen.

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

  • Đơn vị Duvdevan — đội tấn công bí mật Israel
  • Danh sách vụ ám sát Israel
  • Trung tâm Nhiệm vụ đặc biệt
  • The Spy Machine (1998), phim tài liệu đặc biệt Anh về công việc của Mossad
  • Đơn vị 8200, đơn vị công nghệ và tình báo tín hiệu của Đội tình báo Israel
  • Yamam, Đơn vị Đặc cảnh Biên cảnh ưu tú của Israel

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ "The secret history of Mossad, Israel's feared and respected intelligence agency". www.newstatesman.com. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2019.
  2. ^ Levinson, Chaim (ngày 26 tháng 8 năm 2018). "A Golden Age for the Mossad: More Targets, More Ops, More Money". Haaretz. Truy cập ngày 2 tháng 7 năm 2019.
  3. ^ a b Mossad profile, Global Security. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2006.
  4. ^ Mossad profile, Federation of American Scientists. Truy cập ngày 28 tháng 10 năm 2006.
  5. ^ Workings of Israel's secret service exposed, London Times, ngày 2 tháng 8 năm 1996
  6. ^ Israel Vs. Iran: The Shadow War, Potomac Books, Inc, 2012, page 91, By Yaakov Katz, Yoaz Hendel
  7. ^ Poisoned toothpaste and exploding phones: New book chronicles Israel’s ‘2,700’ assassination operations Ethan Bronner, Saturday ngày 27 tháng 1 năm 2018, The Independent
  8. ^ How Israel’s leaders use targeted killings to try to ‘stop history’ By DAVID HOROVITZ, ngày 26 tháng 1 năm 2018, Times of Israel
  9. ^ Szalai, Jennifer (ngày 31 tháng 1 năm 2018). 'Rise and Kill First' Shines Light on Israel's Hidden Assassinations”. The New York Times.
  10. ^ a b c ISRAEL'S MOSSAD IS LOOKING FOR A FEW GOOD STARTUPS BY HERB KEINON, JUNE 27, 2017, Jerusalem Post
  11. ^ OP. HARPOON: HOW THE MOSSAD AND AN ISRAELI NGO DESTROYED TERRORIST MONEY NETWORKS, Jerusalem Post, 7 Nov 2017
  12. ^ Following the Money, By Yishai Schwartz, ngày 18 tháng 1 năm 2018
  13. ^ a b Bergman, Ronen (ngày 25 tháng 1 năm 2012). “Will Israel Attack Iran?”. The New York Times. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2012.
  14. ^ The Forward and Dan Raviv And Yossi Melman (ngày 27 tháng 3 năm 2016). “The Strange Case of a Nazi Who Became an Israeli Hitman”. Haaretz.
  15. ^ “Israel Intelligence and covert operations: Chronology 1948 – 1955”. Zionism-israel. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  16. ^ Ross, Michael: The Volunteer (2006)
  17. ^ Aburish, Said K. (1998). From Defender to Dictator. New York: Bloomsbury Publishing. tr. 203–210. ISBN 978-1-58234-049-4.
  18. ^ Aburish, Said K. (1998). From Defender to Dictator. New York: Bloomsbury Publishing. ISBN 978-1-58234-049-4.
  19. ^ Report: Hamas operative known as 'The Engineer' assassinated by Mossad in Tunisia By JPOST.COM STAFF, 12/16/2016
  20. ^ Tunisia investigating Mossad-suspected assassination Roi Kais, 17.12.16, ynetnews
  21. ^ “Mossad took photos, Entebbe Operation was on its way”. Ynetnews. 2006. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2009.
  22. ^ "Israel marks 30th anniversary of Entebbe." Associated Press in USA Today. ngày 5 tháng 7 năm 2006.
  23. ^ Ross, Michael, The Volunteer, pp. 251–272
  24. ^ Argentina claimed that the "illicit and clandestine transfer of Eichmann from Argentine territory constitutes a flagrant violation of the Argentine State's right of sovereignty[.]" Bass, Gary J. (2004.) The Adolf Eichmann Case: Universal and National Jurisdiction. In Stephen Macedo (ed,) Universal Jurisdiction: National Courts and the Prosecution of Serious Crimes. (ch.4) Philadelphia: U.Penn. Press. In Eichmann's case, the most salient feature from the perspective of international law was the fact of Israeli law enforcement action in another state's territory without consent; the human element includes the dramatic circumstances of the capture by Mossad agents and the ensuing custody and transfer to Israel[.] Damrosch, Lori F. (2004.) Connecting the Threads in the Fabric of International Law. In Stephen Macedo (ed,) Universal Jurisdiction: National Courts and the Prosecution of Serious Crimes. (ch.5) Philadelphia: U.Penn. Press. The principle of territorial integrity (in Art. 2(4) UN Charter) At its most obvious level this means that the exercise of enforcement jurisdiction within the territory of another state will be a violation of territorial integrity 32 Note 32: E.g. after Adolf Eichmann [...] was abducted from Argentina by a group of Israelis, now known to be from the Israeli Secret Service (Mossad), the Argentine Government lodged a complaint with the UN Security Council [...] It is however unclear whether as a matter of international law the obligation to make reparation for a violation of territorial sovereignty such as that involved in the Eichmann case includes an obligation to return the offender. Higgins, Rosalyn and Maurice Floy. (1997). Terrorism and International Law. UK: Routledge. (p. 48)
  25. ^ “Security Council Resolution 138, "Question Relating to the Case of Adolf Eichmann". UN. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  26. ^ Posner, Gerald L.; John Ware. "How Nazi war criminal Josef Mengele cheated justice for 34 years" Lưu trữ 2014-02-18 tại Wayback Machine. Chicago Tribune Magazine. ngày 18 tháng 5 năm 1986.
  27. ^ Ross, Michael The Volunteer, pp. 168–171
  28. ^ a b Officials Told of ‘Major Assault’ Plans.
  29. ^ “Simon Wiesenthal Center”. Wiesenthal. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  30. ^ “Mossad cooperates with Saudis, Bahrain”. presstv.ir. ngày 8 tháng 2 năm 2014. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2020.
  31. ^ “Mossad chief reportedly visited Saudi Arabia for talks on Iran”. Haaretz.
  32. ^ “Israeli army report reveals intelligence and security relations with several Arab and Muslim countries”. middleeastmonitor.com. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 2 năm 2014.
  33. ^ Iran, Library of Congress Country Studies (pp 276). Truy cập ngày 12 tháng 8 năm 2015.
  34. ^ Ervand Abrahamian, Tortured Confessions (University of California Press, 1999), p. 104
  35. ^ “CENTRAL INTELLIGENCE AGENCY – Encyclopaedia Iranica”. www.iranicaonline.org. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2019.
  36. ^ Linzer, Dafna. "Former Iranian Defense Official Talks to Western Intelligence", The Washington Post, ngày 8 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 8 tháng 3 năm 2007.
  37. ^ Mahnaimi, Uzi. "Defector spied on Iran for years", The Sunday Times, ngày 11 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2007.
  38. ^ Edward Yeranian (ngày 11 tháng 1 năm 2011). “Israeli Plot Against Nuclear Scientists”. VOA. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  39. ^ 'Iran mourns missile commander killed in blastt' New York Times ngày 14 tháng 11 năm 2011
  40. ^ 'Mossad behind Iranian military base blast' Ynet, ngày 25 tháng 10 năm 2010
  41. ^ “Geopolitical Diary: Israeli Covert Operations in Iran”. Stratfor. ngày 2 tháng 2 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 4 tháng 2 năm 2007. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)(requires premium subscription)
  42. ^ Daniel Klaidman, Eli Lake and Dan Ephron (ngày 13 tháng 2 năm 2012). “Obama's Dangerous Game With Iran”. Newsweek Magazine. Truy cập ngày 3 tháng 3 năm 2012.
  43. ^ Mossad’s stunning op in Iran overshadows the actual intelligence it stole Times of Israel, ngày 1 tháng 5 năm 2018
  44. ^ European intelligence officials briefed in Israel on Iran’s nuclear archive Times of Israel, ngày 5 tháng 5 năm 2018
  45. ^ a b c Ostrovsky, Victor (1990), By Way of Deception – The making and unmaking of a Mossad Officer, New York: St. Martin's Press, ISBN 978-0-9717595-0-3
  46. ^ McGeough, Paul (2009) Kill Khalid – The Failed Mossad Assassination of Khalid Mishal and the Rise of Hamas. Quartet Books. ISBN 978-0-7043-7157-6. Pages 126,127.
  47. ^ a b Cowell, Alan (ngày 15 tháng 10 năm 1997). “The Daring Attack That Blew Up in Israel's Face”.
  48. ^ McGeough, Paul (2009) Kill Khalid – The Failed Mossad Assassination of Khalid Mishal and the Rise of Hamas. Quartet Books. ISBN 978-0-7043-7157-6. Page 184.
  49. ^ Guerin, Orla. "Arafat: On borrowed time", BBC News, ngày 29 tháng 6 năm 2002. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2006.
  50. ^ Barbara Harlow (Winter–Spring 1986). “Return to Haifa: "Opening the Borders" in Palestinian Literature”. Social Text. No. 13/14 (13/14): 3–23. JSTOR 466196.
  51. ^ Life and Death of a Terrorist, The New York Times, ngày 10 tháng 7 năm 1983.
  52. ^ Shalev, Noam 'The hunt for Black September', BBC News Online, ngày 26 tháng 1 năm 2006. Truy cập ngày 14 tháng 3 năm 2006.
  53. ^ a b c d e f Israeli "Hits" On Terrorists, Jewish Virtual Library, last updated ngày 18 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2007.
  54. ^ Blanford, Nicholas (ngày 15 tháng 6 năm 2006). “Lebanon exposes deadly Israeli spy ring”. The Times. London. Truy cập ngày 14 tháng 8 năm 2006.
  55. ^ “Beirut blast kills Hezbollah fighter”. BBC News. ngày 2 tháng 8 năm 2003. Truy cập ngày 9 tháng 6 năm 2013.
  56. ^ “Beirut bomb kills Hezbollah man”. BBC News. ngày 19 tháng 7 năm 2004. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2011.
  57. ^ Mrque, Baseem (ngày 26 tháng 5 năm 2006). “Islamic Jihad Leader Killed in Lebanon”. The Washington Post. Washington. Truy cập ngày 22 tháng 1 năm 2010.
  58. ^ “Lebanon arrests another 2 over spying for Israel”. Ya Libnan. ngày 28 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2010.
  59. ^ “Lebanon: Israeli spying cell busted”. Xinhua. ngày 13 tháng 6 năm 2006. Bản gốc lưu trữ 11 Tháng hai năm 2012. Truy cập ngày 21 tháng 4 năm 2011. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  60. ^ New York Times, ngày 23 tháng 1 năm 2018, "How Arafat Eluded Israel’s Assassination Machine"
  61. ^ Poisoned toothpaste and exploding phones: New book chronicles Israel’s ‘2,700’ assassination operations Ethan Bronner, Saturday ngày 27 tháng 1 năm 2018, The Independent.
  62. ^ Our Man in Damascus, 1969.
  63. ^ a b c d Ronen Bergman, The Spies Inside Damascus Foreign Policy, ngày 19 tháng 9 năm 2013
  64. ^ Hamas member assassinated in Syria News From Bangladesh, ngày 27 tháng 9 năm 2004
  65. ^ Assassinations: the work of Mossad? Times, ngày 16 tháng 2 năm 2010
  66. ^ Mahnaimi, Uzi; Jaber, Hala; Swain, Jon (ngày 17 tháng 2 năm 2008). “Israel kills terror chief with headrest bomb”. The Sunday Times. London. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2008.
  67. ^ Top Russian spy’s body washes up 'after swimming accident’, Telegraph
  68. ^ Israel's Red Line: Fate of Syrian Chemical Weapons May Trigger WarDer Spiegel, By Ronen Bergman, Juliane von Mittelstaedt, Matthias Schepp and Holger Stark, ngày 31 tháng 7 năm 2012
  69. ^ “A Top Syrian Scientist Is Killed, and Fingers Point at Israel”. The New York Times. ngày 6 tháng 8 năm 2018.
  70. ^ Dubai Releases Video Of Alleged Assassins In Hamas Chief Killing Huffington Post ngày 16 tháng 2 năm 2010, attributed to Associated Press
  71. ^ UAE: European team killed Mabhouh Jerusalem Post and Associated Press, ngày 15 tháng 2 năm 2010
  72. ^ Katz, Yaakov (ngày 31 tháng 1 năm 2010). “Analysis: Another blow to the 'axis of evil'. The Jerusalem Post. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2010.
  73. ^ Issacharoff, Avi (ngày 2 tháng 2 năm 2010). “Who killed Mahmoud al-Mabhouh? / Many wanted Hamas man dead”. Haaretz. Truy cập ngày 2 tháng 2 năm 2010.
  74. ^ Melman, Yossi (ngày 11 tháng 2 năm 2010). "10 agents including 3 women, took part in Dubai Hamas assassination" Haaretz. Truy cập ngày 11 tháng 2 năm 2010.
  75. ^ “Dubai suspects had five fake Irish passports”. RTÉ News. ngày 18 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 21 tháng 2 năm 2010.
  76. ^ “Man in photo on Hamas leader hit squad passport not my son, says mum”. The Australian. ngày 25 tháng 2 năm 2010. Truy cập ngày 25 tháng 2 năm 2010.
  77. ^ 'U.K. police in Israel to probe passports used in Dubai hit' (Haaretz, ngày 27 tháng 2 năm 2010
  78. ^ 'Interpol adds suspected Dubai assassins to most wanted list' Haaretz ngày 22 tháng 2 năm 2010)
  79. ^ Israeli PM's arrest sought over murder News, ngày 3 tháng 3 năm 2010
  80. ^ a b RAW and MOSSAD, the Secret Link,rediff.com
  81. ^ a b “An ex-RAW employee takes boss to unveil a riveting story of safe houses for Mossad, fake firms and secret funds”. India Today. ngày 15 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2016.
  82. ^ Rajshekhar Jha (ngày 15 tháng 11 năm 2015). “Mossad, MI5 roped in to shield Prime Minister Narendra Modi in Turkey?”. The Times of India. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2016.
  83. ^ “Mossad may be protecting Modi at Turkey G20 summit, paper claims”. The Times of Israel. ngày 15 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 13 tháng 11 năm 2016.
  84. ^ Thomas, Gordon: Gideon's Spies: The Secret History of the Mossad (Fifth Edition)
  85. ^ “RAW & Mossad: The Secret Link”. rediff.com. ngày 8 tháng 9 năm 2003.
  86. ^ Goldman, Jan: Ethics of Spying: A Reader for the Intelligence Professional, Volume 2 p. 63-64
  87. ^ Boyes, Roger (ngày 2 tháng 6 năm 2005). “Mossad spied on farright Austrian”. The Times. London.
  88. ^ “Murdered by the Mossad?” (asf). Canadian Broadcasting Corporation. ngày 12 tháng 2 năm 1991. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2009.
  89. ^ Frum, Barbara (ngày 5 tháng 4 năm 1990). “Who killed Gerald Bull? (Video) – CBC”. Canadian Broadcasting Corporation. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2009.
  90. ^ Dr. Gerald Bull: Scientist, Weapons Maker, Dreamer at CBC.ca
  91. ^ Traynor, Ian. Cover story: Those who are called, The Guardian ngày 10 tháng 12 năm 1994
  92. ^ Benjamin Beit-Hallahmi (1987) The Israeli connection, I.B.Tauris, p. 46.
  93. ^ "FRANCE PROTESTS TO ISRAEL ON RAID", The New York Times, ngày 10 tháng 6 năm 1981. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2006.
  94. ^ Friedman, From Beirut to Jerusalem (HarperCollins Publishers, 1998, 2nd ed.), p. 118
  95. ^ Ford, Peter S., Major, USAF, "Israel's Attack on Osiraq: A Model for Future Preventive Strikes?", INSS Occasional Paper 59, USAF Institute for National Security Studies, USAF Academy, Colorado, July 2005, p. 15
  96. ^ Striking Back: The 1972 Munich Olympics Massacre and Israel's Deadly Response, ISBN 0-8129-7463-8
  97. ^ ISRAEL The Plumbat Operation (1968) Lưu trữ 2008-06-13 tại Wayback Machine retrieved 10/12/2008
  98. ^ Henley, Jon (ngày 3 tháng 3 năm 2001). “French court strikes blow against fugitive Nazi”. The Guardian. Truy cập ngày 27 tháng 10 năm 2006.
  99. ^ “Israel used chocs to poison Palestinian”. SMH. ngày 8 tháng 5 năm 2008. Truy cập ngày 27 tháng 2 năm 2013.
  100. ^ Ross, Michael, The Volunteer, pp. 158–159
  101. ^ Black, Ian (ngày 15 tháng 6 năm 2010). “Ireland orders Israeli diplomat out of embassy over forged passports”. The Guardian. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2014.
  102. ^ “Mossad and the Irish connection”. Irish Independent. ngày 1 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2014.
  103. ^ “Secret army squad keeps watch on 60 Al Qaeda in Ireland”. Irish Daily Star. ngày 26 tháng 3 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 8 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2014. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  104. ^ O'Hanlon, Ray (ngày 16 tháng 2 năm 2011). “Inside File The Mossad's long arm”. Irish Echo. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2014.
  105. ^ Johnson, Ken (ngày 13 tháng 2 năm 2009). “Material for a Palestinian's Life and Death”. The New York Times. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  106. ^ "An Eye for an Eye", Bob Simon”. CBS News. ngày 20 tháng 11 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  107. ^ a b “Capturing nuclear whistle-blower”. Haaretz. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2009.
  108. ^ “Resources”. Military. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  109. ^ “Israelis to Compensate Family of Slain Waiter”. The New York Times. ngày 28 tháng 1 năm 1996. Truy cập ngày 4 tháng 12 năm 2011.
  110. ^ “TERRORISM: Fatal Error”. Time. ngày 6 tháng 8 năm 1973. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 2 tháng 6 năm 2020.
  111. ^ How are Bosnia's Serbs getting Israeli arms?, By Tom Sawicki, The Jerusalem Report, January 1995
  112. ^ Intelligence and the War in Bosnia, 1992–1995 (New Brunswick, N.J.: Transaction, 2003), 215.
  113. ^ America used Islamists to arm the Bosnian Muslims Richard J Aldrich, Monday ngày 22 tháng 4 năm 2002, The Guardian
  114. ^ “Swiss Courts Gives Israeli Spy Suspended Sentence”. Jewish virtual library. ngày 10 tháng 7 năm 2000. Truy cập ngày 23 tháng 10 năm 2010.
  115. ^ “UN confirms Mossad kidnaps Gaza's chief power plant engineer, Dirar Abu Seesi, from Ukraine, suspects Ukrainian help”. WikiLeaks Central. ngày 10 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 3 năm 2011.
  116. ^ “Israeli government apologises to New Zealand”. The New Zealand Herald. NZPA. ngày 26 tháng 6 năm 2005. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2011.
  117. ^ Hallel, Amir (ngày 2 tháng 10 năm 2004). “At home with the Mossad men”. The New Zealand Herald. Truy cập ngày 26 tháng 10 năm 2011.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Đường dẫn ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Mossad