Wiki - KEONHACAI COPA

Milla Jovovich

Milla Jovovich
SinhMilitsa Bogdanovna Jovovich
17 tháng 12, 1975 (48 tuổi)
Kiev, Ukraina Xô viết, Liên Xô
Quốc tịchHoa Kỳ
Nghề nghiệp
  • Diễn viên
  • Người mẫu
  • Nhạc sĩ
Năm hoạt động1985–hiện tại
Phối ngẫu
Shawn Andrews
(cưới 1992⁠–⁠1992)

Luc Besson
(cưới 1997⁠–⁠1999)

Paul W. S. Anderson
(cưới 2009)
Con cái3
Cha mẹ
Trang webmillaj.com

Milica Bogdanovna Jovovich[nb 1][nb 2] (/ˈjvəvɪ/ YOH-və-vich; sinh ngày 17, tháng 12 năm 1975) là một nữ diễn viên,người mẫu và nhạc sĩ người Mỹ.[2] Cô đã xuất hiện trong nhiều bộ phim khoa học viễn tưởngphim hành động,Năm 2004,cô được tạp chí Forbes Bình chọn là nữ diễn viên có thù lao cao nhất thế giới.Năm 2006,cô dẫn đầu kênh âm nhạc VH1 và là "nữ hoàng của kick-butt".[3].[4]

Sinh ra ở Kiev và mang trong mình 2 dòng máu NgaMontenegro, Jovovich di cư với bố mẹ đến London khi cô năm tuổi và sau đó di cư đến Sacramento, California, định cư tại Los Angeles bảy tháng sau đó. Năm 1987, cô bắt đầu làm người mẫu từ năm 12 tuổi khi Herb Ritts chụp ảnh cô cho trang bìa tạp chí Lei của Ý.[5][6] Richard Avedon đã giới thiệu cô cho quảng cáo "Người phụ nữ đáng nhớ nhất trên thế giới" của Revlon.[7] Năm 1988, Jovovich đóng vai đầu tiên trong phim The Night Train to Kathmandu và năm đó cũng xuất hiện trong bộ phim truyện đầu tiên của cô, Two Moon Junction.

Jovovich đã thu hút sự chú ý khi đống vai diễn phim lãng mạn năm 1991 Return to the Blue Lagoon, khi cô mới 15 tuổi.[8] Cô được đánh giá có bước đột phá với vai diễn trong bộ phim khoa học viễn tưởng năm 1997 The Fifth Element của Pháp do Luc Besson viết kịch bản và đạo diễn. Cô và Besson kết hôn năm đó, nhưng sớm ly dị. Cô đóng vai chính nữ anh hùng và kẻ tử đạo trong The Messenger: The Story of Joan of Arc (1999). của Besson.

Năm 2002, Jovovich đóng vai chính trong bộ phim kinh dị khoa học viễn tưởng Resident Evil, được chuyển thể từ loạt trò chơi điện tử cùng tên. Phim nhận được những nhận xét tiêu cực từ các nhà phê bình,[9][10] nhưng đã thành công về mặt thương mại.[11] Cô diễn lại vai diễn của mình trong năm phần tiếp theo, tất cả trong dòng phim hành động kinh dị khoa học viễn tưởng, được thực hiện giữa năm 2004 và năm 2016.[12]

Jovovich đã phát hành một album, The Divine Comedy, vào năm 1994. Cô tiếp tục phát hành các bản demo cho các bài hát khác trên trang web chính thức của mình và đóng góp cho soundtracks phim. Năm 2003, cô và người mẫu Carmen Hawk đã tạo ra dòng quần áo Jovovich-Hawk. Jovovich có công ty sản xuất riêng của mình, Creature Entertainment.[13]

Sự nghiệp người mẫu[sửa | sửa mã nguồn]

Milla jovovich bắt đầu sự nghiệp người mẫu năm 11 tuổi và tiếp tục sự nghiệp với những chiến dịch quảng cáo danh tiếng cho L'Oréal cosmetics, Banana Republic, Christian Dior, Donna KaranVersace. năm 2004 cô đứng đầu danh sách Những Siêu Mẫu Giàu Nhất Thế giới do tạp chí Forbes bình chọn với số tiền kiếm được là 10.5 triệu USD/ năm. Cũng trong năm đó cô xếp hạng 69 trong top 100 của tạp chí Maxim.

Sự nghiệp diễn xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1988 cô có vai diễn chuyên nghiệp đầu tiên trong bộ phim truyền hình The Night Train to Kathmandu. Sau đó một năm, vào năm 1989 cô có vai diễn trong bộ phim điện ảnh đầu tiên của mình Two Moon Junction, theo sau là nhiều lần xuất hiện trên truyền hình trong bộ phim truyền hình Married with Children. Cô nhận được nhiều sự chú ý từ sau bộ phim tình cảm lãng mạn Return to the blue lagoon (1991). năm 1997 Milla diễn cùng tài tử Bruce willis trong bộ phim khoa học viễn tưởng The Fifth Element và năm 1999 cô vào vai Joan Of Arc trong bộ phim The Messenger: The Story of Joan of Arc. Vào năm 2002, cô vào vai chính trong bộ phim dược chuyển thể từ trò chơi điện tử cùng tên Resident evil - một trò chơi rất ăn khách trên hệ máy Playstation, bộ phim có ba phần tiếp theo là Resident Evil: Apocalypse (2004), Resident evil: Extinction (2007) và Resident Evil: Afterlife (2010), năm 2009 là một năm bận rộn của cô với 2 bộ phim sắp ra mắt (A perfect getawayThe 4th Kind) và 2 bộ phim đang trong giai đoạn sản xuất (Azazelstone). trong suốt cả sự nghiệp diễn xuất của mình cô đã có tổng cộng tám đề cử tuy nhiên cô chưa thắng được đề cử nào.

Sự nghiệp thiết kế thời trang[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2003 cô và siêu mẫu Carmen Hawk đã thành lập một công ty thời trang mang tên Jovovich-Hawk với vai trò là nhà thiết kế chính.

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Hiện cô đang sống chung với chồng - đạo diễn nhà viết kịch bản nổi tiếng Paul W. S. Anderson (người là đạo diễn và cũng là nhà viết kịch cho seri phim Resident Evil mà cô thủ vai chính) tại L.ANew York. 3/11/2007 cô hạ sinh một bé gái - con của cô và Paul W. S. Anderson - tên là Ever Gabo Anderson.

Cô tập yoga, võ thuật và ngồi thiền, cô thích chơi ghita, viết nhật ký, thơ và viết lời cho các bài hát.

Cô nói được 4 thứ tiếng tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Nga và tiếng Serbia.

Các phim đã tham gia[sửa | sửa mã nguồn]

Key
Denotes productions that have not yet been releasedPhim chưa công chiếu
Phim điện ảnh
NămTựa đềVai diễnĐạo diễnGhi chú
1988Two Moon JunctionSamantha DelongpreZalman King
1991Return to the Blue LagoonLilli HargraveWilliam A. Graham[14]
1992KuffsMaya CarltonBruce A. Evans
ChaplinMildred HarrisRichard Attenborough
1993Dazed and ConfusedMichelle BurroughsRichard Linklater
1996The Mirror Has Two FacesGirl in CommercialBarbra StreisandUncredited Cameo
1997The Fifth ElementLeeloo de SabatLuc Besson[15]
1998He Got GameDakota BurnsSpike Lee[16]
1999The Messenger: The Story of Joan of ArcJoan of ArcLuc Besson
2000The ClaimLuciaMichael Winterbottom
The Million Dollar HotelEloiseWim Wenders
2001ZoolanderKatinka IngaborgovinananaBen Stiller[17]
2002Resident EvilAlicePaul W. S. Anderson
You Stupid ManNadineBrian Burns
2003DummyFangora "Fanny" GurkelGreg Pritikin
No Good DeedErinBob Rafelson
2004Resident Evil: ApocalypseAliceAlexander Witt
2005Needlework Pictures Presents Francesco Vezzoli in Gore Vidal's 'Caligula'Julia DrusillaFrancesco VezzoliShort film
2006UltravioletViolet Song Jat ShariffKurt Wimmer[18]
.45KatGary Lennon
2007Resident Evil: ExtinctionAliceRussell Mulcahy[19]
2008Palermo ShootingHerselfWim Wenders
2009A Perfect GetawayCydney AndersonDavid Twohy[20]
The Fourth KindDr. Abigail "Abbey" TylerOlatunde Osunsanmi[21]
2010StoneLucetta CreesonJohn Curran
Resident Evil: AfterlifeAlicePaul W. S. Anderson[22]
Dirty GirlSue-Ann EdmondstonAbe Sylvia[23]
2011Lucky TroubleNadyaLevan GabriadzeRussian-language
Bringing Up BobbyOliveFamke Janssen[24]
The Three MusketeersMilady de WinterPaul W. S. Anderson[25]
Faces in the CrowdAnna MarchantJulien MagnatAlso executive producer,[26]
2012Resident Evil: RetributionAlicePaul W. S. Anderson[27]
2014CymbelineThe QueenMichael Almereyda[28]
2015Phản sátKate AbbottJames McTeigue[29]
A Warrior's TailSavvaMaxim FadeevVoice only (English version)
2016Trai đẹp lên sànKatinka IngaborgovinananaBen Stiller[30]
Vùng đất quỷ dữ: Hồi cuốiAlice / Alicia MarcusPaul W. S. Anderson[31][32]
2017Shock and AweVlatkaRob Reiner[33]
2018Future WorldThe Drug lordJames Franco & Bruce Thierry Chung[34]
2019Paradise HillsThe DuchessAlice Waddington[35]
HellboyVivienne Nimue, the Blood QueenNeil Marshall[36][37]
The RookiesSenior Agent BruceAlan Yuen
2020Thợ săn quái vậtCaptain Natalie ArtemisPaul W. S. Anderson[38]
Phim truyền hình
NămTựa đềVai tròGhi chú
1988The Night Train to KathmanduLily McLeodTV film
ParadiseKatieEpisode: "Childhood's End"
1989Married... with ChildrenYvetteEpisode: "Fair Exchange"
1990Parker Lewis Can't LoseRobin FecknowitzEpisode: "Pilot"
2002King of the HillSerena ShawEpisode: "Get Your Freak Off"
2009Project RunwayHerselfEpisode: "Around the World in Two Days"
2016Lip Sync BattleEpisode: "Milla Jovovich vs. Ruby Rose"
2018Robot ChickenNanny McPhee/Megan Hipwell/MintieVoice
Episode: "We Don't See Much of That in 1940s America"
Video games
YearTitleVoice
1998The Fifth ElementLeeloo de Sabat
2020Monster Hunter World: IceborneCaptain Natalie Artemis[39]
Music videos
YearSongArtist
1998"If You Can't Say No"Lenny Kravitz
2013"I Wanna Be a Warhol"Alkaline Trio
2016"Signal"Sohn
2018"Withorwithout"Parcels

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Milla Jovovich không có tên nào là "Nataša";đó là sự nhầm lẫn của báo chí.Nataša là tên người anh em họ hàng của cô ấy.[1]
  2. ^ Serbian Cyrillic: Милица Јововић; tiếng Nga: Милица Йовович; tiếng Ukraina: Милиця Йовович

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Milla Jovovich's mother (ngày 23 tháng 8 năm 2005). “Галина Логінова: Сьогодні Київ, наче весела дiвчина, гарно вбрана i нафарбована” (Phỏng vấn) (bằng tiếng Ukraina). Україна Молода. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013.
  2. ^ “Milla Jovovich Official Site”. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2017. Chú thích có tham số trống không rõ: |1= (trợ giúp)
  3. ^ C. Bottomley, Milla Jovovich: Building a Perfect Action Star [liên kết hỏng],ngày 2 tháng 3 năm 2006,VH1.
  4. ^ “Milla: The world's richest model”. Forbes. ngày 28 tháng 7 năm 2004. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013.
  5. ^ “Millaj:Purple Love”. Purple magazine. MillaJ.com. 1990. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013.
  6. ^ Leon, Sarah (ngày 19 tháng 10 năm 2011). “Milla Jovovich Magazine Cover, 1987: A Look Back”. The Huffington Post. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013.
  7. ^ Dolan, Maggie (ngày 17 tháng 12 năm 2013). “Milla Jovovich's Paper Covers, a Retrospective”. Paper. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2015.
  8. ^ “Milla Jovovich Filmography”. MillaJ.com. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2013.
  9. ^ “Resident Evil (2002)”. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013.
  10. ^ Roger Ebert (ngày 11 tháng 8 năm 2005). “Ebert's Most Hated”. Chicago Sun-Times. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 6 năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013.
  11. ^ “Resident Evil”. Box Office Mojo. Amazon.com. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013.
  12. ^ “Resident Evil: Afterlife Back to 2010”. CraveOnline Media, LLC. ShockTilYouDrop.com. ngày 11 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 8 năm 2017. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  13. ^ “Milla's Tale”. Harpers & Queen. tháng 1 năm 2003. Truy cập ngày 15 tháng 5 năm 2013.
  14. ^ Ng, Philiana (9 tháng 12 năm 2011). “Lifetime Moves Forward With 'Blue Lagoon' Remake”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  15. ^ Byrge, Duane (9 tháng 5 năm 2018). 'The Fifth Element': THR's 1997 Review”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  16. ^ Rechtshaffen, Michael (1 tháng 5 năm 2019). 'He Got Game': THR's 1998 Review”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  17. ^ Fletcher, Harry (28 tháng 11 năm 2015). “The Zoolander 2 trailer is breaking comedy records”. Digital Spy (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  18. ^ Jeffery, Morgan (14 tháng 1 năm 2012). 'Ultraviolet': Tube Talk Gold”. Digital Spy (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  19. ^ AP; AP (23 tháng 9 năm 2007). “Resident Evil: Extinction”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  20. ^ Honeycutt,AP, Kirk; Honeycutt, Kirk; AP (5 tháng 8 năm 2009). “A Perfect Getaway — Film Review”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  21. ^ AP; AP (4 tháng 11 năm 2009). “The Fourth Kind — Film Review”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  22. ^ Gaudiosi, John (9 tháng 9 năm 2010). “A Minute With: Milla Jovovich in "Resident Evil". Reuters (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  23. ^ AP; AP (14 tháng 10 năm 2010). “Dirty Girl: Film Review”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  24. ^ Staff, T. H. R. (27 tháng 9 năm 2012). “Bringing Up Bobby: Film Review”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  25. ^ Reynolds, Simon (12 tháng 10 năm 2011). “Milla Jovovich talks 'Three Musketeers'. Digital Spy (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  26. ^ Green, Kris (30 tháng 6 năm 2008). 'Face In The Crowd'. Digital Spy (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  27. ^ Staff, T. H. R. (14 tháng 9 năm 2012). “Resident Evil Retribution: Film Review”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  28. ^ Anderson, Ariston (3 tháng 9 năm 2014). “Venice: Shakespeare's 'Cymbeline' Gets the Biker Gang Treatment”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  29. ^ McMillan, Graeme (2 tháng 4 năm 2015). “Milla Jovovich Is on the Run in 'Survivor' Trailer (Video)”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  30. ^ Rooney, David (9 tháng 2 năm 2016). 'Zoolander 2': Film Review”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  31. ^ Harp, Justin (9 tháng 8 năm 2016). “Resident Evil is back in wicked Final Chapter trailer”. Digital Spy (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  32. ^ Busch, David Robb,Anita; Robb, David; Busch, Anita (13 tháng 10 năm 2015). 'Resident Evil' Stuntwoman Injured On Set Out Of Coma – Update”. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 7 năm 2021.
  33. ^ Young, Deborah (18 tháng 12 năm 2017). 'Shock and Awe': Film Review | Dubai 2017”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2021.
  34. ^ Scheck, Frank (26 tháng 5 năm 2018). 'Future World': Film Review”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  35. ^ Felperin, Leslie (31 tháng 1 năm 2019). 'Paradise Hills': Film Review | Sundance 2019”. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  36. ^ Tartaglione, Nancy (8 tháng 2 năm 2019). 'Hellboy' To Be Unleashed In China Via JL Vision Film”. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  37. ^ Seddon, Dan (16 tháng 4 năm 2019). “Hellboy star Milla Jovovich defends movie against its bad reviews”. Digital Spy (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  38. ^ Tartaglione, Nancy (8 tháng 12 năm 2020). 'Monster Hunter' Director Paul W.S. Anderson, Co-Star MC Jin Apologize Over Scene That Caused China Backlash”. Deadline (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 25 tháng 7 năm 2021.
  39. ^ Summers, Nick (25 tháng 11 năm 2020). “Milla Jovovich is coming to 'Monster Hunter World: Iceborne'. Engadget. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2020.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Milla_Jovovich