Wiki - KEONHACAI COPA

Mads Mikkelsen

Mads Mikkelsen
SinhMads Dittmann Mikkelsen
22 tháng 11, 1965 (58 tuổi)
Copenhagen, Đan Mạch
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động1996–nay
Phối ngẫu
Hanne Jacobsen (cưới 2000)
Con cái2
Người thânLars Mikkelsen (anh trai)
Trang webmadsmikkelsen.com

Mads Dittmann Mikkelsen (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1965) là một diễn viên người Đan Mạch. Công việc đầu tiên của ông là một vận động viên và vũ công, bắt đầu sự nghiệp diễn xuất năm 1996 và được chú ý đến lần đầu tiên qua vai diễn Tonny trong loạt phim Pusher, và vai cảnh sát Allan Fischer trong bộ phim truyền hình của Đan Mạch Rejseholdet (Unit One) (2000–2003).

Mikkelsen tiếp tục chứng tỏ khả năng đầy hứa hẹn của mình qua vai Tristan trong bộ phim King Arthur (2004) của đạo diễn Jerry Bruckheimer. Nhưng ông thực sự được khán giả thế giới biết đến khi vào vai phản diện Le Chiffre trong phần phim thứ 21 của James BondCasino Royale (2006).

Từ đó ông càng trở nên nổi tiếng hơn với các vai diễn Igor Stravinsky trong bộ phim của Pháp Coco Chanel & Igor Stravinsky (2008), và giành chiến thắng ở Liên hoan phim Cannes cho Giải cho nam diễn viên xuất sắc nhất[1] qua vai diễn Lucas trong bộ phim tâm lý của Đan Mạch The Hunt vào năm 2012. Sau đó ông tiếp tục tham gia đóng vai chính Dr. Hannibal Lecter trong bộ phim truyền hình nổi tiếng Hannibal (2013–2015). Vào năm 2016, Mikkelsen vào vai Kaecilius trong bộ phim Doctor Strange của Marvel và vai Galen Erso trong bộ phim Rogue One: A Star Wars Story. Ông cũng đã góp mặt trong tựa game Death Stranding của Hideo Kojima với vai trò là diễn viên lồng tiếng, diễn viên tạo hình và gặt hái khá nhiều thành công trong vai trò này

A. O. Scott của The New York Times đã có nói rằng: "Trong thế giới của những bom tấn ở Hollywood, Mikkelsen đã trở thành một nam diễn viên đáng tin cậy sở hữu gương mặt quyến rũ. Nhưng ở quê nhà, anh ấy là một cái gì đó khác: một ngôi sao, một tiên đề, một biểu tượng hồi sinh của nền điện ảnh Đan Mạch."[2]

Mads Mikkelsen được bình chọn là người đàn ông quyến rũ nhất ở quê nhà Đan Mạch trong nhiều năm.[3]

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Mikkelsen sinh ra ở Østerbro, Copenhagen, là con thứ hai trong gia đình. Mẹ là Bente Christiansen - một y tá, ba là Henning Mikkelsen - một nhân viên ngân hàng và viên chức công đoàn. Ông có một người anh trai Lars Mikkelsen, cũng là một diễn viên.[4]

Từ khi còn trẻ, ông luôn ước mơ sẽ trở thành một vận động viên thể dục, muốn theo đuổi thể thao. Nhưng sau đó lại học khiêu vũ tại Balettakademien (học viện múa ba lê) ở Gothenburg, nơi giúp ông thông thạo tiếng Thụy Điển[5]. Trong sự nghiệp nhảy múa của mình, Mikkelsen gặp biên đạo múa Hanne Jacobsen, người mà ông đã kết hôn năm 2000. Ông là một vũ công chuyên nghiệp gần một thập niên cho đến khi rời bỏ nó để nghiên cứu kịch tại Trường Nhạc kịch Århus vào năm 1996 và bắt đầu sự nghiệp diễn xuất.[6][7]

Trong một cuộc phỏng vấn với The Independent, Mikkelsen cho biết: "Sự thật là tôi chưa bao giờ muốn trở thành một vũ công cả. Tôi rất thích nhảy, nhưng đó không phải một ước mơ. Tôi không thích thú lắm cái đẹp từ việc nhảy múa, nhưng tôi yêu cái chất biểu diễn trong đó. Và tôi bỗng nhiên nảy ra ý tưởng: "Sao mình không tập trung hẳn vào diễn xuất nếu đó là thứ mà mình thực sự yêu thích?". Đó là một thời kỳ quá độ chậm chạp. Nhưng sau đó tôi vẫn đăng ký vào trường học diễn xuất, học tập ở đó 4 năm, rồi tốt nghiệp trong những năm đầu của tuổi 30."[8]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Giai đoạn 1996–2005[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ phim đầu tiên ông tham gia diễn xuất là Pusher (1996), được mệnh danh là "The Sopranos phiên bản châu Âu", trong đó ông sắm vai trợ thủ của nhân vật chính Frank (Kim Bodnia) - gã vận chuyển ma túy gặp rắc rối với các băng nhóm sau một phi vụ không thành. Năm 2000, ông vào vai một tên xã hội đen trong phim Flickering Lights, là bộ phim hài đen nổi tiếng của Đan Mạch từng chinh phục khán giả trên toàn thế giới nhờ gu hài hước tinh tế và tính nhân văn đằng sau câu chuyện về nhóm anh em "chắp vá" gặp rắc rối với một tên tội phạm máu mặt. Năm tiếp theo, sắm vai chính Jacob trong bộ phim hài đồng tính Shake It All About (2001), bộ phim giúp ông có được giải thưởng đầu tiên trong sự nghiệp - giải Zulu cho Nam diễn viên xuất sắc nhất.[9][10]

Năm 2002, trong bộ phim Open Hearts, Mikkelsen vào vai một bác sĩ trẻ nảy sinh tình cảm với bạn gái của một trong những bệnh nhân của mình. Bộ phim mang về cho ông giải Nam diễn viên xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Bắc Âu Rouen năm 2003. Năm kế tiếp, tham gia vào bộ phim The Green Butchers (2003) vào vai gã đồ tể Svend sống ở một thị trấn nhỏ của Đan Mạch, nơi mà thịt người là một đặc sản[11]. Bộ phim giúp ông đoạt giải Nam diễn viên xuất sắc nhất ở Liên hoan phim Fantasporto, nhiều người cũng cho rằng đây là "tiền thân" của vai diễn Hannibal sau này.

Năm 2004, ông trở lại vai diễn gã vận chuyển ma túy Tonny trong phần tiếp theo của Pusher, Pusher II. Diễn xuất của ông nhận được nhiều khen ngợi và đem về danh hiệu Nam diễn viên xuất sắc nhất ở giải Bodil, giải Zulu và ở Liên hoan phim Robert. Năm 2005, ông vào vai mục sư Ivan trong bộ phim hình sự Adam’s Apples, người ra sức thuyết phục gã tân phát xít Adam hướng thiện nhờ vào tình yêu của Chúa. Sự kết hợp diễn xuất của Mikkelsen và Ulrich Thomsen giúp Adam’s Apples giành giải Phim truyện xuất sắc nhất tại Liên hoan phim Robert năm 2006.[12]

Sự nghiệp của Mikkelsen thật sự đột phá khi tham gia vào bộ[13] phim truyền hình Rejseholdet (Unit One) (2000–03) trong vai cảnh sát Allan Fischer, với 32 tập phim và kéo dài hơn 4 năm, vai diễn đã giúp ông thắng giải Nam diễn viên xuất sắc nhất năm 2002 do trang web cphtvfestival.dk bầu chọn. Nhưng tên tuổi của ông thật sự được khán giả thế giới biết đến khi vào vai Tristan trong phim King Arthur (2004) được sản xuất bởi Jerry Bruckheimer, bộ phim đã đạt được doanh thu rất cao bất chấp những nhận xét tiêu cực từ giới phê bình.[14]

Giai đoạn 2006–2010[sửa | sửa mã nguồn]

Sau Open Hearts, Mikkelsen và đạo diễn Susanne Bier tái hợp trong dự án After the Wedding (2006). Bộ phim được đề cử giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất[15], ngoài ra ông còn thắng giải Nam diễn viên xuất sắc nhất ở cả Liên hoan phim quốc tế Palm SpringsGiải thưởng phim Châu Âu (European Film Award). Cùng năm đó, Mikkelsen đã đạt được thành công đầu tiên trong sự nghiệp quốc tế của mình qua vai phản diện Le Chiffre trong phần phim thứ 21 của James BondCasino Royale, loạt phim nổi tiếng có thương hiệu đình đám đến từ Anh Quốc.[16]

Năm 2008, Mikkelsen vào vai viên sĩ quan Jørgen Haagen Schmith (còn có biệt danh là Flame) trong bộ phim Flame and Citron, lấy bối cảnh Thế chiến thứ II, khi Đan Mạch bị Đức Quốc xã chiếm đóng, Flame nhận được lệnh phải xử tử chính bạn gái của mình là Ketty, một nữ giao liên người Thụy Điển. Trận chiến trong tâm trí Flame cũng khắc nghiệt không kém những gì đang xảy ra ở ngoài đời. Đồng thời trong cùng năm, ông tham gia lồng tiếng cho nhân vật Le Chiffre trong trò chơi Quantum of Solace, và là gương mặt đại diện cho chiến dịch quảng bá bộ sưu tập của hãng đồng hồ Swatch đến từ Thụy Sỹ mang tên "007 Villain Collection" diễn ra ở Bregenz, Áo.[17]

Năm 2009, Mikkelsen được bình chọn là một trong những diễn viên quyến rũ nhất Châu Âu. Cùng năm, ông tham gia vào bộ phim tình cảm của Pháp Coco Chanel & Igor Stravinsky, vào vai Igor Fyodorovich Stravinsky - người được coi là một trong những nhà soạn nhạc có tầm ảnh hưởng nhất thế kỷ 20. Được chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên, bộ phim khắc họa một cách chân thực và sâu sắc về chuyện tình đầy lãng mạn giữa huyền thoại thời trang nước Pháp với một anh chàng nghệ sĩ tới từ nước Nga băng giá[18]. Sau đó Mikkelsen trở lại với hình tượng đầy bạo lực trong bộ phim Valhalla Rising qua vai diễn một chiến binh câm lặng, một thủ lĩnh Viking. Trốn khỏi kiếp nô lệ, anh dong thuyền cùng với những binh lính theo đạo Thiên chúa đi tìm Đất thánh. Năm 2010, ông vào vai Draco - một hộ vệ của nhà vua trong bộ phim thần thoại Hy Lạp Clash of the Titans.[10]

Giai đoạn 2010 đến nay[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2012, Mikkelsen vào vai chính trong phim tâm lý The Hunt, vai diễn giúp ông phô diễn tài năng kiệt xuất của mình nhiều nhất và giành được danh hiệu Nam diễn viên xuất sắc nhất ở Liên hoan phim Cannes[1]. Bộ phim của đạo diễn Thomas Vinterberg vừa gây sốc, vừa cảm động khi mô tả cuộc sống ở một thị trấn nhỏ của Đan Mạch khi sắp tới Giáng Sinh, ở đấy một người đàn ông bị cô lập bởi những người xung quanh vì bị hiểu lầm là lạm dùng tình dục trẻ em. Ngoài ra phim còn được đề cử giải Oscar lần thứ 86 tại hạng mục Phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc nhất, còn ông nhận được đề cử Nam diễn viên xuất sắc nhất ở giải Quả cầu vàng lần thứ 71giải của các nhà phê bình phim London (London Film Critics Circle Award). Trong cùng năm đó, ông tham gia vào bộ phim cổ trang A Royal Affair, là một trong những phim có kinh phí đắt nhất trong lịch sử Đan Mạch. Lấy bối cảnh ở thế kỷ thứ 18, nàng công chúa nước Anh Caroline Mathilde (Alicia Vikander), người đem lòng yêu vị bác sĩ người Đức Johann Struensee (Mikkelsen) trong khi có nghĩa vụ phải kết hôn với gã vua điên Christian VII (Følsgaard), họ đã cùng nhau khởi xướng một cuộc cách mạng có khả năng thay đổi diện mạo quốc gia vĩnh viễn. Bộ phim được nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình và nhận đề cử Phim nói tiếng nước ngoài xuất sắc tại OscarQuả Cầu Vàng năm 2013[19]. Cũng trong năm 2012, ông được bình chọn là Nhân vật của năm bởi Hiệp hội Người Mỹ gốc Đan Mạch.[20]

Năm 2013, Mikkelsen vào vai tiến sĩ Hannibal Lecter trong bộ phim truyền hình kinh dị viễn tưởng Hannibal (2013 - 2015) của đài NBC. Bộ phim lấy cảm hứng từ những nhân vật và các tình tiết xảy ra trong cuốn tiểu thuyết Red Dragon của Thomas Harris với một bối cảnh hiện đại, được phát triển từ bộ phim Sự Im Lặng Của Bầy Cừu (1991) do Bryan Fuller viết kịch bản và là nhà sản xuất tài trợ. Bộ phim xoay quanh mối quan hệ bắt đầu nảy sinh giữa nhà phân tích tâm lý tội phạm Will Graham đang theo đuổi một vụ giết người hàng loạt cùng với FBI và Hannibal Lecter, nhà tâm thần học hàng đầu đất nước. Lối suy nghĩ độc đáo của Graham đã tạo cho anh một khả năng lạ lùng là đồng cảm và hiểu thấu đáo tâm trí của tất cả mọi người, kể cả bọn sát nhân máu lạnh. Ông đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ khán giả lẫn các nhà phê bình cho khả năng diễn xuất xuất chúng của mình.[21]

Fuller đã nói về vai diễn Hannibal của Mikkelsen: "Cái tôi thích nhất ở Mads là trong cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi, anh ấy đã không muốn nhân vật mình giống như của Hopkins hay Cox. Anh ấy nói về nhân vật của mình không hoàn toàn tựa như ‘Hannibal kẻ ăn thịt người tâm thần’, nhưng như Satan – Thiên thần sa ngã (Fallen Angel) người đã say mê với nhân loại và có một sự đồng cảm cho loài người chúng ta, nhưng chắc chắn không phải ở giữa chúng tôi – anh ấy khác. Tôi đã nghĩ điều đó thật tốt, một sự tiếp cận thú vị, bởi vì tôi yêu khoa học giả tưởng và kinh dị và – không phải chúng tôi đã cố tình làm điều gì để có được đề nghị này – nhưng việc anh ấy diễn Lecter giống Lucifer là một sự thú vị thực sự cho bộ phim. Có một chút khác biệt so với những phần phim trước và cũng sẽ hoành tráng hơn nếu bạn xem chương trình qua lăng kính ‘Đây là cách Satan làm việc, cám dỗ một người nào đó với một quả táo tinh thần’. Việc được thực hiện bộ phim này làm tôi rất vui mừng."[22] Cùng với đề tài mới lạ độc đáo, nội dung mang tính bạo lực nhưng không phản cảm và giàu tính nhân văn, bộ phim đã được yêu thích trên toàn thế giới và nhận được nhiều đánh giá tích cực từ giới phê bình, đạt đến 8,6 điểm trên IMDb.[23]

Trong cùng năm 2013, Mikkelsen vào vai Nigel trong bộ phim tâm lý, tình cảm Charlie Countryman, được trình chiếu tại Liên hoan Phim Sundance. Cuối năm đó bộ phim Michael Kohlhaas do ông đóng vai chính được công chiếu tại Liên hoan Phim Cannes năm 2013.

Năm 2014, Mikkelsen vào vai Jon trong bộ phim The Salvation, bối cảnh phim về miền Viễn Tây những năm 1870 ở Mỹ. Nơi có những người dân bình ân sinh sống với nhau. Cuộc sống đẩy đưa một anh chàng lương thiện chất phác, do muốn trả thù cho gia đình mất oan mạng của mình và anh vô tình dính dáng đến một băng đảng khét tiếng vào thời ấy. Trong cùng năm, ông được Rihanna mời đóng video ca nhạc "Bitch Better Have My Money" với vai diễn là kế toán của cô.[24]

Năm 2016, Mikkelsen là một thành viên trong Ban Giám khảo của Liên hoan Phim Cannes[25]. Vào tháng 10, ông xuất hiện trong bộ phim Doctor Strange của Marvel với vai phản diện Kaecilius, cùng với  Benedict CumberbatchTilda Swinton. Vào tháng 12, ông góp mặt trong phần phim Rogue One: A Star Wars Story của loạt phim Star Wars với vai diễn Galen Erso, một nhà khoa học bị buộc phải hoàn thành siêu vũ khí của Đế Chế, Ngôi Sao Chết. Sắp tới ông sẽ góp mặt trong tựa game Death Stranding của Hideo Kojima với vai trò là diễn viên lồng tiếng.[26]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1987, Mikkelsen đã gặp và hẹn hò với Hanne Jacobsen, một biên đạo múa. Họ có với nhau một người con gái, Viola Jacobsen Mikkelsen (sinh năm 1992), và một người con trai Carl Jacobsen Mikkelsen (sinh năm 1997). Sau đó cặp đôi kết hôn vào năm 2000.[27]

Tuy sự nghiệp luôn thăng tiến, nhưng Mikkelsen vẫn chọn sống ở quê nhà tại Copenhagen[28]. Ông có một người anh trai Lars Mikkelsen, cũng là một diễn viên.[4]

Tước hiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Với những đóng góp về nghệ thuật của mình, ngày 15 tháng 4 năm 2010, Mikkelsen được Nữ hoàng Đan Mạch phong tước Hiệp sĩ.[29]

Tháng 4 năm 2016, Hội Văn học Nghệ thuật Pháp phong tước Hiệp sĩ cho ông vì những đóng góp to lớn vào nền nghệ thuật Pháp.[30]

 Danh mục tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]

Phim điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

NămTên phimVai diễnĐạo diễnGhi chú
1996BlomsterfangenMaxJens Arentzen
1996PusherTonnyNicolas Winding Refn
1996Café HectorAndersLotte SvendsenPhim ngắn
1998VildsporJimmySimon Staho
1998Nattens engelRonnieShaky González
1999Tom MerrittElmer KarrAnders GustafssonPhim ngắn
1999BleederLennyNicolas Winding Refn
2000Flickering LightsArneAnders Thomas Jensen
2001Monas verdenCasperJonas Elmer
2001Shake It All AboutJacobHella Joof
2002I Am DinaNielsOle Bornedal
2002Open HeartsNielsSusanne Bier
2002Wilbur Wants to Kill HimselfHorstLone Scherfig
2003NuJakob (young)Simon StahoPhim ngắn
2003The Boy BelowFarMorten GiesePhim ngắn
2003The Green ButchersSvendAnders Thomas Jensen
2003Torremolinos 73MagnusPablo Berger
2004King ArthurTristanAntoine Fuqua
2004Pusher IITonnyNicolas Winding Refn
2005Adam's ApplesIvanAnders Thomas Jensen
2006After the WeddingJacob PetersenSusanne Bier
2006PragueChristofferOle Christian Madsen
2006ExitThomas SkepphultPeter Lindmark
2006CarsChick HicksJohn LasseterLồng tiếng
2006Casino RoyaleLe ChiffreMartin Campbell
2008Flame & CitronCitronenOle Christian Madsen
2009Coco Chanel & Igor StravinskyIgor StravinskyJan Kounen
2009Valhalla RisingOne-EyeNicolas Winding Refn
2009The DoorDavid AndernachAnno Saul
2010Clash of the TitansDracoLouis Leterrier
2010Moomins and the Comet ChaseSniffMaria LindbergLồng tiếng
2011The Three MusketeersRochefortPaul W. S. Anderson
2012A Royal AffairCount Johann Friedrich StruenseeNikolaj Arcel
2012The HuntLucasThomas Vinterberg
2012Move OnMarkAsger Leth
2013Charlie CountrymanNigelFredrik Bond
2013Michael KohlhaasMichael KohlhaasArnaud des Pallières
2014The SalvationJon JensenKristian Levring
2015Men & ChickenEliasAnders Thomas Jensen
2016Doctor StrangeKaeciliusScott Derrickson
2016Le FantômeLe FantômeJake ScottPhim ngắn
2016Rogue One: A Star Wars StoryGalen ErsoGareth Edwards
2017ArticJoe Penna
2022Sinh vật huyền bí: Những bí mật của DumbledoreGellert GrindelwaldDavid Yates
2023Indiana Jones và vòng quay định mệnhVollerJames Mangold

Phim truyền hình[sửa | sửa mã nguồn]

NămTênVai diễnSố tập
2000–2003RejseholdetAllan Fisher32 tập
2005JulieHarald6 tập
2013–2015HannibalDr. Hannibal Lecter39 tập

Video games[sửa | sửa mã nguồn]

NămPhimVai diễnGhi chú
2008Quantum of Solace: The GameLe ChiffreLồng tiếng
2019Death StrandingMotion capture, voice and likeness

Video âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

NămArtistTênVai diễn
2009Jokeren"Sig Ja"Male lead
2011Sólstafir"Djákninn"Viking man
2015Rihanna"Bitch Better Have My Money"The Accountant

Giải thưởng và đề cử[sửa | sửa mã nguồn]

NămGiải thưởngTên phimKết quả
2001Zulu Award for Best ActorShake It All AboutĐoạt giải
2002Rouen Nordic Film Festival Award for Best ActorOpen HeartsĐoạt giải
2002Bodil Award for Best ActorOpen HeartsĐề cử
2002Robert Festival Award for Best ActorOpen HeartsĐề cử
2002Zulu Award for Best Supporting ActorWilbur Wants to Kill HimselfĐoạt giải
2003Fantasporto Award for Best ActorThe Green ButchersĐoạt giải
2003Bodil Award for Best ActorThe Green ButchersĐề cử
2004Bodil Award for Best ActorPusher IIĐoạt giải
2004Robert Festival Award for Best ActorPusher IIĐoạt giải
2004Zulu Award for Best ActorPusher IIĐoạt giải
2005Puchon International Fantastic Film Festival Award for Best ActorAdam's ApplesĐoạt giải
2005Robert Festival Award for Best Supporting ActorAdam's ApplesĐề cử
2006Palm Springs International Film Festival Award for Best ActorAfter the WeddingĐoạt giải
2006European Film Award for Best ActorAfter the WeddingĐề cử
2006Robert Festival Award for Best ActorAfter the WeddingĐề cử
2006Zulu Award for Best ActorPragueĐoạt giải
2006Bodil Award for Best ActorPragueĐề cử
2006Robert Festival Award for Best ActorPragueĐề cử
2008European Film Award for Best ActorFlame & CitronĐề cử
2008Robert Festival Award for Best Supporting ActorFlame & CitronĐề cử
2009Robert Festival Award for Best ActorValhalla RisingĐề cử
2012Bodil Award for Best ActorA Royal AffairĐề cử
2012Robert Festival Award for Best ActorA Royal AffairĐề cử
2012Bodil Award for Best ActorThe HuntĐoạt giải
2012Cannes Film Festival Award for Best ActorThe HuntĐoạt giải
2012Palm Springs International Film Festival Award for Best ActorThe HuntĐoạt giải
2012Robert Festival Award for Best ActorThe HuntĐoạt giải
2012Zulu Award for Best ActorThe HuntĐoạt giải
2012International Cinephile Society Award for Best ActorThe HuntĐề cử
2012International Online Film Critics' Poll Award for Best ActorThe HuntĐề cử
2012European Film Award for Best ActorThe HuntĐề cử
2012London Film Critics Circle Award for Actor of the YearThe HuntĐề cử
2012Online Film Critics Society Award for Best ActorThe HuntĐề cử
2013César Award for Best ActorMichael KohlhaasĐề cử
2013Saturn Award for Best Actor on Television HannibalĐoạt giải
2014Saturn Award for Best Actor on TelevisionHannibalĐề cử
2015Zulu Award for Best ActorMen & ChickenĐoạt giải
2015Fangoria Chainsaw Awards for Best TV ActorHannibalĐề cử
2015Satellite Award for Best Actor – Television Series DramaHannibalĐề cử
2016Zulu Award for Best ActorDoctor StrangeĐoạt giải

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b "Awards 2012" Cannes”. Truy cập ngày 27 tháng 5 năm 2012.
  2. ^ “Great Dane”. The New York Times. A. O. Scott. Truy cập ngày 4 tháng 5 năm 2015.
  3. ^ “Mads Mikkelsen, sexiest man in Denmark, stars in 'A Royal Affair' and 'Hannibal'. The Washington Post. ngày 11 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 3 năm 2015. Truy cập 31 tháng Năm năm 2017.
  4. ^ a b "My Life – Portrait of Mads Mikkelsen Pt 1" (YouTube); Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
  5. ^ "Med Mads på mammas gata", DN.se, ngày 21 tháng 9 năm 2007. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
  6. ^ “MADS MIKKELSEN – MOST WANTED”. Scan Magazine. Bản gốc lưu trữ ngày 23 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 10 tháng 9 năm 2012.
  7. ^ "Mads Mikkelsen", Den Store Danske". (tiếng Đan Mạch). Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
  8. ^ “Mads Mikkelsen: 'I'm still looking for my identity in the English language'. www.independent.co.uk. ngày 27 tháng 7 năm 2016.
  9. ^ "Mads Mikkelsen (skuespil)", Scope. (tiếng Đan Mạch). Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
  10. ^ a b Paul Gaita, "Mads Mikkelsen: Biography", Yahoo! Movies. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
  11. ^ “The Danish Directors 2”. Intellect Books. Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  12. ^ “Adam's Apples Best Film at Roberts”. http://www.cineuropa.org. ngày 6 tháng 2 năm 2006. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  13. ^ “Flame & Citron (Flammen & Citronen)”. The Washington Post. ngày 1 tháng 6 năm 2009.[liên kết hỏng]
  14. ^ Rowland, Robin (2004). "Warrior queens and blind critics." Canadian Broadcasting Corporation News. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
  15. ^ “BIER'S "AFTER THE WEDDING" COMPETING FOR AN OSCAR NOMINATION 2007”. http://www.dfi.dk. ngày 25 tháng 9 năm 2006. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  16. ^ “Danish actor to play Bond villain”. http://www.cbc.ca. ngày 16 tháng 2 năm 2006. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  17. ^ "Swatch Launch 007 Villains Watches", MI6. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
  18. ^ “Anna Mouglalis and Mads Mikkelsen on Coco Chanel and Igor Stravinsky”. Empire (film magazine). Truy cập ngày 1 tháng 6 năm 2013.
  19. ^ “A Royal Affair”. Metacritic. CBS. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2013.
  20. ^ “Onion Crunch Danish American Society Names Mads Mikkelsen Person of the Year”. ngày 11 tháng 11 năm 2012. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập 31 tháng Năm năm 2017.
  21. ^ “Review: Mads Mikkelsen mesmerizes in 'Hannibal'. Insidetv.ew.com. ngày 4 tháng 4 năm 2013.
  22. ^ “Bryan Fuller 'Hannibal' Q&A: 'Lecter is like Satan at work'. digitalspy.com. ngày 3 tháng 5 năm 2013.
  23. ^ “Hannibal”. imdb.com. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2017.
  24. ^ Phull, Hardeep (ngày 2 tháng 7 năm 2015). “5 WTF moments from Rihanna's violent new video”. New York Post.
  25. ^ Rhonda Richford (ngày 25 tháng 4 năm 2016). “Cannes Film Festival Unveils Full Jury”. The Hollywood Reporter.
  26. ^ Pereira, Chris (ngày 3 tháng 2 năm 2016). “Kojima Partnering With Killzone, Horizon Dev Guerrilla for Death Stranding”. GameSpot. CBS Interactive.
  27. ^ Anderson, John (ngày 3 tháng 6 năm 2010). “Sex Symbol With an Unearthly Twist”. NY Times.
  28. ^ "DP/30 @ TIFF 2012: The Hunt & A Royal Affair, actor Mads Mikkelsen" YouTube. Truy cập ngày 30 tháng 5 năm 2013.
  29. ^ “Mads Mikkelsen and Wilbek Made Knights” (bằng tiếng Đan Mạch). Berlingske Media. ngày 22 tháng 9 năm 2012.
  30. ^ “Les Danois Mads Mikkelsen et Thomas Vinterberg décorés par la France” (bằng tiếng Pháp). Le Figaro. ngày 29 tháng 4 năm 2016.

 Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Mads_Mikkelsen