Wiki - KEONHACAI COPA

Linh dương Grant

Linh dương Grant
Một con linh dương Grant
Tình trạng bảo tồn
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Mammalia
Bộ (ordo)Artiodactyla
Họ (familia)Bovidae
Chi (genus)Nanger
Loài (species)N. granti
Danh pháp hai phần
Nanger granti
(Brooke, 1872)[2]

Linh dương Grant (tên khoa học: Nanger granti) là một phân loài trong chi Linh dương Gazelle thuộc loài động vật có vú trong họ Bovidae, bộ Artiodactyla. Loài này được Grant mô tả năm 1872.,[2] chúng phân bố từ phía bắc Tanzania đến miền nam SudanEthiopia, và từ bờ biển Kenya đến Hồ Victoria.[3] Tên tiếng Swahili của chúng là Swala Granti.[4]

Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]

Linh dương Grant của có liên quan về mặt di truyền hơn con linh dương Soemmerring (N. soemmerringii) và linh dương Thomson (Eudorcas thomsonii) với con linh dương Soemmering của là tương đối gần gũi nhất của hai loài.[3] Linh dương Grant cho thấy sự biến đổi di truyền khá cao trong các quần thể của nó, mặc dù không có sự cách ly địa lý.[3] Sự khác biệt của loài này có thể đã tiến hóa trong quá trình mở rộng một cách lặp đi lặp lại và thu hẹp môi trường sống khô cằn trong thời kỳ cuối kỷ Pleistocene, trong đó số lượng chúng đã có thể bị cô lập. Linh dương Grant trước đây được coi là một thành viên của chi Gazella trong phân chi Nanger.

Phân loài[sửa | sửa mã nguồn]

Đặc điểm[sửa | sửa mã nguồn]

Cấu tạo[sửa | sửa mã nguồn]

Một con linh dương đực to khỏe

Con linh dương Grant khi đứng cao đến 75-95 cm (30–37 in) tính đến vai. Con cái nặng 35-50 kg (77-110 lb) và con đực nặng 50-80 kg (110-180 lb).[5][4] Chúng có một màu da cam màu be ở mặt sau với một cái bụng màu trắng. Con linh dương Grant trông bề ngoài thì giống như con linh dương Thomson, ngoại trừ nó có sừng đàn lia hình và có hai vệt đen ở bụng. Phân loài được tách biệt bởi đặc điểm hình thái khác nhau, chẳng hạn như hình dạng sừng và sự khác biệt nhỏ màu lông Những khác biệt này không chỉ tách biệt sinh thái với một số loài. Linh dương Grant là loài cực kỳ nhanh chóng, chúng có thể chạy 80 km/h (50 mph) nhưng những con đực to lớn hơn thường không vượt quá 72 km/h (45 mph).

Phân bố[sửa | sửa mã nguồn]

Linh dương Grant được tìm thấy ở Đông Phi và sống ở vùng đồng bằng cỏ mở và thường được tìm thấy trong những cây bụi khi chúng rúc ở trong đó, nó tránh những khu vực có cỏ cao, nơi tầm nhìn của động vật ăn thịt bị hạn chế. Chúng cũng phân bố ở khu vực bán khô cằn và tương đối thích nghi với những vùng khô. Chúng là động vật di cư, nhưng đi theo hướng ngược lại của hầu hết các động vật móng guốc khác, chẳng hạn như linh dương Thompson, ngựa vằn, linh dương đầu bò, phụ thuộc vào nơi nhiều nước hơn. Chúng cũng có thể tồn tại trên thảm thực vật trong có nước, khu vực bán khô cằn nơi chúng phải đối mặt với sự cạnh tranh ít khốc liệt hơn.

Những kẻ săn mồi phổ biến nhất của con linh dương Grant là loài báo săn và những con chó hoang. Con người cũng có xu hướng để săn linh dương. Trong vùng Serengeti, linh dương Grant là một mục con mồi cho loài báo săn, nhưng chính những con linh dương Thomson là con mồi ưa thích của báo săn hơn vì độ mơn mởn và thịt tơ ngon của con linh dương này phù hợp với khẩu vị của báo săn. Tuy nhiên, trong công viên quốc gia Nairobi, linh dương Grant lại được ưa thích hơn con linh dương Thomson và nó là một nguồn thực phẩm quan trọng của loài báo săn. Chó rừng chính là kẻ săn mồi chính đối với những con linh dương non.

Tập tính[sửa | sửa mã nguồn]

Chế độ ăn uống trung bình của chúng bao gồm 65,8 % thức ăn lá và 34,3% gặm cỏ. Lượng mưa trong môi trường sống của chúng dường như là yếu tố quyết định của chế độ ăn của loài linh dương này, chúng tiếp nhận nước từ những thức ăn mà chúng đã ăn vì vậy chúng thường không uống nước nhiều. Chính điều này giúp chúng có thể trụ lại trên đồng bằng dài ngày sau khi những cơn mưa cuối mùa. Từ tháng bảy đến tháng chín, linh dương di chuyển và chờ đợi những cơn mưa tiếp theo.

Một con linh dương Gran đực và bạn tình của nó

Linh dương Grant là một loài sống thành bầy, sống theo lãnh thổ, và là loài di cư. Những con linh dương đực chiếm lãnh thổ, chúng sẽ dồn tất cả những con cái mà qua lãnh thổ của họ. Khi con cái động dục, chúng được bảo vệ một cách chặt chẽ đối với những con đực ưu thế trong đó trong đó có việc ngăn chặn những con đực khác đến tán tỉnh và giao phối với những con cái. Hầu hết thời gian con đực tìm mọi cách giữ cho con cái không rời xa lãnh thổ, đồng thời bất kỳ thành viên mới phải thực hiện những hành vi nhất định khi nhập nhóm.

Một xu hướng rất lỏng lẻo của các thành viên có thể ở lại hoặc ra đi bất cứ khi nào chúng muốn. Những con đực lớn tuổi có sừng dày và lớn hơn thì luôn có cơ hội tốt nhất của việc thiết lập một vùng lãnh thổ. Mâu thuẫn giữa con đực trưởng thành với nhau thường được giải quyết và một cuộc đe dọa và quyết đấu. Những con đực sẽ gài sừng lại với nhau và dùng sức mạnh của cổ để đọ sức. Sức mạnh ở cổ rất quan trọng trong một cuộc chiến thực tế. Linh dương có sức mạnh gần bằng cổ có nhiều khả năng tham gia vào chiến đấu thực tế. Những cuộc đụng độ giữa những con linh dương mới lớn thường xuyên hơn những con đã trưởng thành.

Sinh sản[sửa | sửa mã nguồn]

Một con đực đang theo đuổi một con cái

Linh dương Grant trưởng thành và thuần thục lúc 18 tháng. Những con đực chủ lãnh thổ có thể giao phối hơn so với những con trong nhóm. Nghi thức tán tỉnh bắt đầu với một đực theo sau một con cái và chờ đợi cho con cái để đi tiểu. Khi con cái tiểu thì con đực ập vào và ngửi để xác định xem con cái đang động đực hay không. Nếu có, con đực sẽ tiếp tục theo con cái và con cái sẽ nâng đuôi của nó lên, là một tín hiệu rõ ràng cho thấy con cái đã sẵn sàng để giao phối, con đực sẽ đưa dương vật của mình vào âm vật của con cái.

Thời kỳ mang thai của con linh dương cái kéo dài trong 198 ngày. Giờ sinh đẻ cao điểm vào tháng Giêng và tháng Hai. Một con cái sẽ rời khỏi bầy đàn của mình và tìm một nơi ẩn tốt để sinh con. Sau đó chúng sẽ sinh ra một con linh dương con và chăm sóc chúng vài ngày. Một đặc điểm là linh dương luôn sinh con giữa ban trưa, là thời điểm các loài động vật ăn thịt đang nghỉ trưa hoặc tránh trong bóng râm, do đó con con có đủ thời gian để tập đi và chạy.

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ IUCN SSC Antelope Specialist Group (2016). Nanger granti. Sách đỏ IUCN về các loài bị đe dọa. 2016: e.T8971A50186774. doi:10.2305/IUCN.UK.2016-2.RLTS.T8971A50186774.en. Truy cập ngày 20 tháng 12 năm 2021.
  2. ^ a b Wilson, D. E.; Reeder, D. M. biên tập (2005). “Nanger granti”. Mammal Species of the World . Baltimore: Nhà in Đại học Johns Hopkins, 2 tập (2.142 trang). ISBN 978-0-8018-8221-0. OCLC 62265494.
  3. ^ a b c Peter Arctander (1996). “Extreme genetic differences among populations of Gazella granti, Grant's gazelle, in Kenya” (PDF). 76 (5). Heredity. Truy cập ngày 19 tháng 6 năm 2008. Chú thích journal cần |journal= (trợ giúp)
  4. ^ a b Grant's Gazelle[liên kết hỏng], Out of Africa
  5. ^ <http://www.antelopetag.com/assets/docs/Antelope/DesertAntelope/Grants_gazelle08.pdf

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Linh_d%C6%B0%C6%A1ng_Grant