Lê Đức Thọ
Lê Đức Thọ | |
---|---|
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 18 tháng 12 năm 1986 – 13 tháng 10 năm 1990 (mất) 3 năm, 299 ngày |
Tiền nhiệm | Chức vụ thành lập |
Kế nhiệm | Nguyễn Văn Linh |
Bí thư phụ trách Tư tưởng, Nội chính và Ngoại giao | |
Nhiệm kỳ | tháng 3 năm 1983 – 1986 |
Vị trí | |
Nhiệm kỳ | 20 tháng 12 năm 1976 – 31 tháng 3 năm 1982 5 năm, 101 ngày |
Vị trí | |
Nhiệm kỳ | 1976 – 8 tháng 12 năm 1980 |
Tiền nhiệm | Lê Văn Lương |
Kế nhiệm |
|
Vị trí | |
Trưởng ban Miền Nam Trung ương | |
Nhiệm kỳ | 1973 – 1976 |
Kế nhiệm | Chức vụ bãi bỏ |
Nhiệm kỳ | 1956 – 1973 |
Tiền nhiệm | Lê Văn Lương |
Kế nhiệm | Lê Văn Lương |
Vị trí | |
Nhiệm kỳ | 20 tháng 8 năm 1955 – 18 tháng 12 năm 1986 31 năm, 120 ngày |
Vị trí | |
Thông tin chung | |
Sinh | 10 tháng 10, 1911[1][2][3] Nam Trực, Nam Định, Bắc Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Mất | 13 tháng 10, 1990 Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, Hai Bà Trưng, Hà Nội, Việt Nam | (79 tuổi)
Tôn giáo | Không |
Đảng chính trị | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Vợ | Nguyễn Thị Chiếu |
Cha | Phan Đình Quế |
Họ hàng | Đinh Đức Thiện Mai Chí Thọ |
Con cái | Lê Nam Thắng Phan Đình Dũng |
Lê Đức Thọ, tên khai sinh Phan Đình Khải (10 tháng 10 năm 1911 theo tài liệu chính thức[2][3], hoặc 14 tháng 11 năm 1911 theo tài liệu của Mỹ, 30 tháng 12 năm 1911 theo gia phả – 13 tháng 10 năm 1990) là chính khách Việt Nam, giữ chức Trưởng Ban Chính trị Đặc biệt Trung ương, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, phụ trách nhân sự của Đảng Cộng sản Việt Nam suốt một thời kỳ dài 1956-1982, trực tiếp phụ trách đoàn ngoại giao Việt Nam đàm phán với Mỹ về Hiệp định Paris. Sau khi Hiệp định Paris được ký kết, ông Thọ trở thành người châu Á đầu tiên được trao tặng giải Nobel Hòa bình cùng với Ngoại trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger vào năm 1973, nhưng ông đã từ chối nhận giải. Đó là giải Nobel duy nhất dành cho người Việt cho đến nay.
Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải, sinh tại thôn Địch Lễ, xã Nam Vân, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định nay là xã Nam Vân (TP Nam Định). Ông là anh trai của tướng quân hậu cần Đinh Đức Thiện và đại tướng Mai Chí Thọ.
Lê Đức Thọ trở nên tích cực trong chủ nghĩa dân tộc Việt Nam khi còn là một thiếu niên và trải qua phần lớn thời niên thiếu của mình trong các nhà tù của Pháp, một trải nghiệm đã khiến ông trở nên cứng rắn. Biệt danh của Lê Đức Thọ là "Cái búa" vì tính cách nghiêm khắc của ông. [5] Ông tham gia các hoạt động cách mạng (tổ chức bãi khóa, dự lễ truy điệu nhà chí sĩ Phan Châu Trinh, lãnh đạo phong trào đấu tranh của học sinh...) và bị Pháp bắt giam hai lần (1930-1936 và 1939-1944). Năm 1930, Lê Đức Thọ là một trong những người thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Chính quyền thực dân Pháp đã giam cầm ông từ năm 1930 đến năm 1936 và một lần nữa từ năm 1939 đến năm 1944.
Người Pháp đã giam ông vào một trong những phòng giam "chuồng cọp" trên nhà tù nằm trên đảo Poulo Condore (nay là Đảo Côn Sơn) ở Biển Đông. Poulo Condore với những phòng giam “chuồng cọp” được coi là nhà tù khắc nghiệt nhất toàn cõi Đông Dương thuộc Pháp. [6]. Trong thời gian ở “chuồng cọp”, Lê Đức Thọ phải chịu đói rét, tủi nhục. Cùng với các tù nhân cách mạng khác, ông học văn chương, khoa học, ngoại ngữ và đóng kịch Molière.[7] Mặc dù bị Pháp giam cầm, Pháp vẫn được coi là "xứ sở của văn hóa", và các tù nhân đã bày tỏ "sự tri ân đặc biệt" đối với văn hóa Pháp bằng cách trình diễn các vở kịch của Molière.[8] Sau khi được thả tự do lần thứ hai, ông trở về Hà Nội hoạt động và trực tiếp phụ trách Xứ ủy Bắc Kỳ. Năm 1944 ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1948, Lê Đức Thọ vào miền Nam Việt Nam làm Phó Bí thư, kiêm Trưởng ban Tổ chức Xứ ủy Nam Bộ cho tới Hiệp định Genève được ký kết năm 1954.
Sau khi tập kết ra Bắc năm 1955, ông được bầu vào Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam (sau này đổi tên là Đảng Cộng sản Việt Nam) và đắc cử.
Trong các năm từ 1956 đến 1973 và 1976 đến 1982, Lê Đức Thọ làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương, theo William Duiker, ông đã nhanh chóng làm cho ban này trở thành bộ máy hiệu quả để điều tra và kiểm soát các đảng viên. Theo một số nguồn tin thì Lê Đức Thọ là một trong những nhân vật có vai trò chính trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, Ban Tổ chức Trung ương đã cùng thực hiện điều tra và bắt giữ một số cán bộ, đảng viên làm gián điệp cho nước ngoài[9]
Đầu năm 1968, Lê Đức Thọ trở lại miền Nam làm Phó bí thư Trung ương Cục miền Nam một thời gian ngắn. Sau các cao điểm của đợt 2 và 3 của Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu xúc tiến các cuộc thương lượng bí mật. Đến tháng 5/1968, Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi Lê Đức Thọ về gấp Hà Nội, để chuẩn bị sang Paris làm cố vấn cao cấp Đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris. Trong lá thư viết tay gửi Bộ Chính trị, Hồ Chí Minh ghi rõ: "… Anh Sáu (Lê Đức Thọ) nên về ngay (trước tháng 5/1968) để tham gia phái đoàn ta đi gặp đại biểu Mỹ". Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng ký sắc lệnh cử ông Xuân Thủy làm Bộ trưởng, Trưởng đoàn đàm phán tại Hội nghị Paris[10]. Trước khi đoàn đàm phán lên đường, Hồ Chí Minh đã căn dặn: đừng để nước Mỹ bẽ bàng, đừng xúc phạm nhân dân Mỹ vì Việt Nam chỉ chiến đấu với giới cầm quyền hiếu chiến của Mỹ, về nguyên tắc quyết không nhượng bộ song về phương pháp thì "dĩ bất biến, ứng vạn biến"[11].
Trong quá trình đàn phán, Lê Đức Thọ thường xuyên bay về nước để báo cáo tình hình đàm phán. Ngày 12/8/1969, Lê Đức Thọ báo cáo tình hình Hội nghị Paris với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là ngày cuối cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh tự mình xử lý việc nước trước khi lâm bệnh nặng và qua đời.
Cuối năm 1977 đến tháng 1 năm 1979, Bộ Chính trị phân công ông phụ trách Ban Công tác Đặc biệt.
Năm 1980, Lê Đức Thọ làm Bí thư Thường trực Ban bí thư, phụ trách tổ chức. Đến tháng 10 năm 1980 kiêm Trưởng ban Chính trị Đặc biệt.
Từ tháng 3 năm 1983, ông là Bí thư phụ trách Tư tưởng, Nội chính và Ngoại giao.
Năm 1983, ông được cử làm Chủ tịch Ủy ban Quốc phòng.
Năm 1986, Lê Đức Thọ là Trưởng Tiểu Ban Nhân sự Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ tháng 12 năm 1986, ông là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Cuối đời[sửa | sửa mã nguồn]
Ngày 13 tháng 10 năm 1990, ông được xác nhận là đã qua đời tại Viện quân y 108 vì 1 cơn bạo bệnh. Ông được phát hiện khi đang đương chức Cố vấn Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù xe cứu thương ngay sau đó đã được điều đến để chở ông đến bệnh viện cấp cứu, nhưng cuối cùng ông vẫn không qua khỏi và đã qua đời vào gần trưa chiều cùng ngày. Sau đó, linh cữu của ông được an táng tại nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội.
Vinh danh[sửa | sửa mã nguồn]
Lê Đức Thọ được trao tặng giải Nobel năm 1973 cùng với Henry Kissinger vì thương thảo thành công Hiệp định Paris chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam, nhưng ông từ chối nhận giải. Khi trả lời báo Thời báo New York Times của Hoa Kỳ, ông Lê Đức Thọ đã công bố lá thư gửi bà Aase Lionæs, Chủ tịch Ủy ban giải Nobel của Quốc hội Na Uy để nói rõ lý do mình từ chối Giải Nobel Hòa bình:
“ | 18 năm qua, Mỹ đã xâm lược Việt Nam. Đế quốc Mỹ đã bị đánh bại. Nhân dân Việt Nam đã kiên cường và anh dũng đấu tranh chống Mỹ xâm lược để bảo vệ độc lập và tự do. Toàn thể loài người tiến bộ đã công nhận và ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa đó. Hiệp định Paris đã được ký. Đây là chiến thắng lịch sử vĩ đại của nhân dân Việt Nam và những người yêu chuộng hòa bình, công lý trên thế giới. Đây là đóng góp quan trọng của nhân dân Việt Nam với phong trào hòa bình thế giới cùng sự nghiệp độc lập của Việt Nam và các dân tộc trên thế giới. Quan điểm nhất quán của nhân dân Việt Nam và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là luôn thực thi Hiệp định Paris một cách đầy đủ và nghiêm túc cũng như đồng thời yêu cầu các bên tham gia có hành động tương tự để duy trì vững chắc hòa bình tại Việt Nam và để bảo vệ hòa bình ở Đông Nam Á và thế giới. Tuy nhiên, từ khi Hiệp định được ký kết, Mỹ và chính quyền Sài Gòn tiếp tục vi phạm trắng trợn các điều khoản then chốt của Hiệp định. Chính quyền Sài Gòn với sự chống lưng và cổ vũ của Mỹ vẫn tiếp tục làm chiến tranh kéo dài. Hòa bình chưa được lập lại ở miền Nam Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, tôi không thể nào nhận giải Nobel Hòa bình năm 1973 mà Ủy ban giải Nobel đã trao cho tôi. Một khi Hiệp định Paris về lập lại hòa bình ở Việt Nam được tôn trọng, miền Nam Việt Nam im tiếng súng và nền hòa bình thực sự ở đó được lập lại, tôi sẽ xem xét việc nhận giải. Xin cho phép tôi gửi lời cảm ơn tới Ủy ban giải Nobel.[12] | ” |
Ngoài ra, trong cuộc phỏng vấn với hãng thông tấn United Press International (UPI) của Hoa Kỳ, ông Lê Đức Thọ cũng nói rõ thêm về lý do từ chối giải Nobel Hòa bình năm 1973:
“ | Thật không may là Ủy ban giải Nobel Hòa bình đã đặt kẻ xâm lược (Mỹ) và nạn nhân bị xâm lược (Việt Nam) ngang hàng với nhau...Thật là một sai lầm ngớ ngẩn. Giải Nobel Hòa bình là một trong những gỉải thưởng vĩ đại nhất thế giới nhưng Mỹ đã thực hiện chiến tranh xâm lược Việt Nam. Người nhận giải Nobel Hòa bình phải là chúng tôi, nhân dân Việt Nam, những người đã kiến tạo hòa bình bằng cách đánh bại cuộc chiến xâm lược chúng tôi do Mỹ gây ra và bằng cách tự mình giành lại độc lập và tự do của chính chúng tôi.[13] | ” |
Tên ông được đặt cho nhiều tuyến đường phố tại các tỉnh, thành ở Việt Nam. Quê nhà ông còn có khu tưởng niệm.[14]
Tác phẩm[sửa | sửa mã nguồn]
Lê Đức Thọ cũng là một nhà thơ với một số tập thơ như Trên những nẻo đường (1956), Đường ngàn dặm (1977), Nhật ký đường ra tiền tuyến (1978), Thơ Lê Đức Thọ (1983).
Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]
Anh ruột ông là Phan Đình Đỗ, sinh năm 1905, là thú y Đại học sỹ Đông Dương (tức là bác sĩ thú y ngày nay) là Viện trưởng Viện chăn nuôi đầu tiên (thời kỳ 1952-1954), Phó Viện trưởng kiêm Trưởng phòng Chăn nuôi -Thú y - Viện Khảo cứu Nông Lâm (1955-1957), Viện trưởng Viện Khảo cứu Chăn nuôi (1957-1959)
Ông là anh ruột của Thượng tướng Đinh Đức Thiện (Phan Đình Dinh) và của Đại tướng Mai Chí Thọ (Phan Đình Đống).
Con trai của ông là Lê Nam Thắng, Nguyên Thứ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.
Lê Nam Thắng là con trai của ông Lê Đức Thọ và bà Nguyễn Thị Chiếu, tức Tám Chiếu, người Nam Bộ. Với người vợ trước, quê Hải Phòng, ông Lê Đức Thọ có một người con trai tên là Phan Đình Dũng, đã qua đời.
Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Khánh thành khu tưởng niệm Lê Đức Thọ, ngày 05/10/2014.
- ^ a b “Lê Đức Thọ - nhà ngoại giao chiến lược tài ba”. Người Lao động. 10 tháng 10 năm 2001. Truy cập 7 tháng 4 năm 2017.
- ^ a b “Tạp chí Cộng sản”. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 4 năm 2017. Truy cập 7 tháng 4 năm 2017.
- ^ đổi âm-dương lịch.
- ^ Langguth, A.J. Our Vietnam: The War 1954–1975, New York: Simon and Schuster 2000 p. 510
- ^ Langguth, A.J. Our Vietnam: The War 1954–1975, New York: Simon and Schuster 2000 p. 250
- ^ Karnow, Stanley Vietnam A History, New York: Viking 1983 p. 125
- ^ Karnow, Stanley Vietnam A History, New York: Viking 1983 p. 623
- ^ Nhà văn Vũ Thư Hiên: Vụ Xét lại chống Đảng và vai trò Lê Đức Thọ, BBC, 15.10.2021
- ^ http://cand.com.vn/Phong-su-tu-lieu/Co-van-Le-Duc-Tho-va-cuoc-dam-phan-lich-su-219614/
- ^ Chuyện chưa kể bên lề Hội nghị Paris
- ^ https://www.nytimes.com/1973/10/24/archives/tho-rejects-nobel-prize-citing-vietnam-situation-careful-decision.html
- ^ https://www.upi.com/Archives/1986/12/17/Personality-Spotlight-Le-Duc-Tho-Vietnams-poet-revolutionary/1693535179600/
- ^ https://plo.vn/tham-khu-tuong-niem-ong-le-duc-tho-post651936.html
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
Wikiquote có sưu tập danh ngôn về: |
- The Nobel Peace Prize 1973 Giải Nobel Hoà bình năm 1973, trang web chính thức (tiếng Anh)
- Giải Nobel Hoà bình: Lê Đức Thọ Lưu trữ 2005-10-27 tại Wayback Machine (tiếng Đức)
- Báo cáo sơ lược trận chiến thắng đầu tiên của chiến dịch Điện Biên Phủ, thư của Lê Đức Thọ gửi Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị.