Wiki - KEONHACAI COPA

Hold It Against Me

"Hold It Against Me"
Gương mặt của người phụ nữ tóc vàng. Cô đang đặt tay lên hai gò má và mái tóc gợn sóng của cô dường như đang chuyển động bên cạnh đôi mắt của cô. Ở góc trái có dòng chữ "hold it against me" được in bằng chữ nhỏ màu đen. Bên dưới dòng chữ ấy là cụm "BRITNEY SPEARS" được viết bằng chữ đen in hoa.
Bìa của "Hold It Against Me"
Bài hát của Britney Spears
từ album Femme Fatale
Phát hành10 tháng 1 năm 2011 (2011-01-10)
Thu âm2010
Phòng thuConway Studios, của Dr. Luke (Los Angeles)
Thể loại
Thời lượng3:49
Hãng đĩaJive
Sáng tác
Sản xuất
  • Dr. Luke
  • Max Martin
  • Billboard
Thứ tự đĩa đơn của Britney Spears
"3"
(2009)
"Hold It Against Me"
(2011)
"Till the World Ends"
(2011)
Video âm nhạc
"Hold It Against Me" trên YouTube

"Hold It Against Me" là một bài hát của nữ ca sĩ người Mỹ Britney Spears nằm trong album phòng thu thứ bảy Femme Fatale (2011) của cô. Bài hát này được sáng tác và sản xuất bởi Max Martin, Dr. LukeBillboard, riêng Bonnie McKee thì phụ trách bổ sung thêm ở phần sáng tác. "Hold It Against Me" được phát hành trên các nền tảng truyền phát trực tuyến vào ngày 10 tháng 1 năm 2011 và dưới định dạng mua kỹ thuật số sau đó một ngày, trở thành đĩa đơn chủ đạo cho album Femme Fatale. McKee từng tiết lộ trong một cuộc phỏng vấn rằng tiêu đề của bài hát bắt nguồn từ cuộc trò chuyện của cô với Katy Perry; và Luke giải thích rằng ông muốn phần nhạc của "Hold It Against Me" sẽ khác với các tác phẩm mà ông từng thực hiện trước đó. Ban đầu, "Hold It Against Me" được gửi tới Katy Perry thu âm nhưng cả Luke lẫn Martin đều cảm thấy bài hát không phù hợp với nữ ca sĩ.

Về mặt sáng tác, "Hold It Against Me" là một sự kết hợp hài hoà giữa thể loại nhạc industrial sôi động và nhịp beat dance trộn lẫn với các yếu tố của electropop và trance. Đoạn điệp khúc là phần giai điệu synth nhẹ nhàng giúp tôn lên chất giọng của Spears, đối nghịch với nhịp nhạc sàn đập mạnh. Bên cạnh đó, "Hold It Against Me" còn sử dụng phần chuyển đoạn nhạc mang âm hưởng dubstep có chứa tiếng thở rên và hôn gió của Spears, và kết lại bằng đoạn điệp khúc cuối sử dụng yếu tố nhạc rave nhằm đẩy cao trào bài hát. Phần lời của bài hát nói về một cô gái đang tìm cách quyến rũ một người trên sàn nhảy và phần điệp khúc là những lời thổ lộ tình cảm đầy mê hoặc của chính cô. Sau khi đĩa đơn ra mắt, bộ đôi The Bellamy Brothers đã chỉ trích bài hát vì sự tương đồng với bản hit "If I Said You Had a Beautiful Body Would You Hold It Against Me" năm 1979 của họ; điều này khiến cho cả Martin, Luke, McKee lẫn Billboard phải đâm đơn kiện cả hai anh em vì tội phỉ báng. Vụ kiện đã được bác bỏ sau khi The Bellamy Brother ngỏ lời xin lỗi.

"Hold It Against Me" đã nhận được nhiều lời tán tương từ các nhà phê bình, dù vậy một số cây bút lại chỉ trích ca khúc này ở phần ca từ. Về mặt thương mại, đĩa đơn ra mắt ở vị trí dẫn đầu bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ ngay trong tuần lễ ra mắt, giúp Spears gặt hái được bài hát quán quân thứ tư trong sự nghiệp âm nhạc và trở thành nghệ sĩ thứ hai trong lịch sử Billboard có số lần ra mắt đĩa đơn ở vị trí quán quân nhiều hơn một. Cô còn là người cho ra mắt hai đĩa đơn liên tiếp ở vị trí dẫn đầu, cũng như nghệ sĩ thứ bảy có các đĩa đơn quán quân nằm ở ba thập kỷ liên tiếp. "Hold It Against Me" đạt được vị trí số một ở Bỉ (Wallonia), Canada, Đan Mạch, Phần Lan và New Zealand; cũng như lọt vào trong top 5 tại bảng xếp hạng ở Úc, Ireland, Ý, Scotland và Na Uy.

Video âm nhạc của bài hát do Jonas Åkerlund đạo diễn và được phát hành vào ngày 17 tháng 2 năm 2011 sau hai tuần thực hiện chiến dịch tung teaser mỗi ngày. Trong video, Spears vào vai một ngôi sao nhạc pop từ vũ trụ đáp xuống Trái Đất để tìm kiếm danh tiếng. Tại đó, cô bị choáng ngợp trước áp lực làm người của công chúng và trở nên suy sụp. Video ca nhạc nhận được những ý kiến trái chiều cho đến tích cực từ giới chuyên môn: các nhà phê bình khen ngợi về mặt ý tưởng nghệ thuật và cùng phần nhìn đẹp mắt nhưng cũng chỉ trích về việc đặt quảng cáo nhãn hàng vào trong video. Spears đã biểu diễn trực tiếp "Hold It Against Me" tại hộp đêm Rain Nightclub, chương trình buổi sáng Good Morning America, chương trình trò chuyện ban đêm Jimmy Kimmel Live! cũng như ở tiết mục mở đầu trong chuyến lưu diễn Femme Fatale Tour (2011).

Bối cảnh[sửa | sửa mã nguồn]

Katy Perry (trong hình) là người tạo ngẫu hứng cho "Hold It Against Me" ra đời và những người sáng tác nên bài hát ấy lúc đầu dự định sẽ giao nó cho cô thu âm.

"Hold It Against Me" được sáng tác và sản xuất bởi Max Martin, Dr. LukeBillboard, riêng Bonnie McKee thì phụ trách bổ sung thêm ở phần sáng tác.[1][2] Ý tưởng cho tựa đề bài hát này bắt nguồn từ lúc McKee gặp gỡ nghệ sĩ thu âm người Mỹ Katy Perry đang mặc bộ đầm bó sát người và nói đùa "Trời ơi Katy, nếu như tôi nói với cô là cô có thân hình đẹp như vậy thì liệu cô có vì điều đó mà trở nên ác cảm với tôi hay không (would you hold it against me)?"[3] Sau khi bài hát được hoàn thiện phần sáng tác, Luke và Martin muốn được gửi tác phẩm tới Perry nhưng họ đã quyết định lại rằng "đây chắc chắn không thể là bài hát của Katy Perry được." Họ tiếp tục phát triển ca khúc với Billboard và Luke nhận định, "Tôi muốn đảm bảo bài hát này nghe không giống như bất cứ thứ gì mà tôi đã từng làm. [...] Phần verse có thể mạnh bạo và phần bridge thì cũng vô cùng, vô cùng mạnh bạo, nhưng mà đoạn điệp khúc thì sẽ phải vô cùng pop."[4] Sau khi những ca từ được cho là phần lời của bài hát bị tuồn lên không gian mạng, Luke bình luận trên tài khoản Twitter của ông vào ngày 9 tháng 12 năm 2010 rằng, "Tôi / tụi tôi sẽ không bao giờ viết một bài hát nào có tựa là 'don't hold it against me' cả.... nên cẨn ThẬn với những thông tin kHônG cHínH xÁc đi mấy đứa nhóc ạ ;-) Bọn tôi có viết 'hold it against me' thật nhưng mấy cái ca từ kia ĐÂU PHẢI là lời bài hát của chính bài hát đó ...."[5] Một số hãng tin đã đã lan truyền rằng "Hold It Against Me" sẽ ra mắt vào ngày 7 tháng 1 năm 2011, nhưng quản lý Adam Leber của Spears đã phủ nhận thông tin này.[6] Đến ngày 6 tháng 1 năm 2011, một đoạn nhạc demo do McKee thu lời đã bị rò rỉ.[7] Spears tung ra ảnh bìa của bài hát cùng ngày hôm đó và bình luận trên Twitter rằng, "Chị đã nghe vụ bản demo ban đầu của đĩa đơn mới của chị bị tuồn ra rồi. Nếu các em thấy hay thì đợi nghe bản thật vào thứ Ba đi."[8]

Vào ngày 10 tháng 1 năm 2011, đĩa đơn "Hold It Against Me" được ra mắt trên trang nền tảng phát trực tuyến của Ryan Seacrest, và ít lâu sau anh đã đem phát bài hát này trên sóng chương trình radio của anh.[9] Spears đã tweet, "Đừng có #HOLDITAGAINSTME vì chuyện ra mắt sớm. Chị chẳng thể nào chờ đợi lâu hơn được nữa. Mong các em đừng cảm thấy bị phiền....."[10] Buổi ra mắt trên đài đã khiến một số trang web gặp sự cố sau khi nhận được quá nhiều lượng truy cập tìm kiếm về bài hát.[11] "Hold It Against Me" chính thức được ra mắt dưới dạng mua kỹ thuật số tại Hoa Kỳ và Canada ở iTunes Store vào lúc 00:00 EST (05:00 UTC), độc quyền tại một nền tảng cho đến ngày 18 tháng 1.[2] Đĩa đơn lúc đầu dự định sẽ được phát hành vào ngày 20 tháng 2 năm 2011 tại Anh Quốc, nhưng đành phải lùi lại sớm hơn vào ngày 17 tháng 1 do "nhu cầu quá lớn."[12]

Sáng tác[sửa | sửa mã nguồn]

"Hold It Against Me" là một bài hát có thời lượng dài ba phút bốn mươi chín giây.[16] Đây là bài nhạc dance pop kết hợp hài hoà giữa thể loại nhạc industrial sôi động và phần beat nhạc trance với các yếu tố của nhạc grime,[17] trong đó phần giọng hát của Spears được "điều chỉnh một chút" nhưng không đến mức quá nặng về Auto-Tune.[13] Đoạn điệp khúc chính là phần gợi nhớ cho người nghe đến các sản phẩm nhạc pop trước kia của Max Martin, với giai điệu synth nhẹ nhàng giúp tôn lên chất giọng của Spears, tương phản với lại những nhịp nhạc sàn đập mạnh.[14][18] Sau đoạn điệp khúc thứ hai là phần drop của nhạc nền và Spears chuyển độc thoại trong phần hook[13] rồi tới phần chuyển đoạn nhạc mang âm hưởng dubstep kéo dài khoảng ba mươi giây, có chứa tiếng thở rên và hôn gió của Spears cùng câu hát "Gimme something good, don't wanna wait I want it now / Pop it like a hood and show me how you work it out."[13][a] Cuối cùng, "Hold It Against Me" tiếp tục đoạn chuyển lần thứ hai tương tự như vậy và bài hát được kết lại bằng điệp khúc cuối sử dụng yếu tố nhạc rave đẩy cao trào bài hát rồi đột ngột kết thúc.[13][14]

Tom Breihan viết cho Stereogum đánh giá cao quá trình sản xuất "Hold It Against Me" sử dụng âm thanh trầm dubstep wub-wub-wub vừa mới trở thành xu hướng phổ biến đương thời, trong một bài đánh giá lại ca khúc quán quân cũ vào năm 2023 của anh.[19] Cây bút Rob Sheffield của Rolling Stone nhận xét về "Hold It Against Me" rằng bài hát "đã khơi gợi lại bầu không khí u ám nằm trong viên ngọc quý năm 2007 của Britney là album Blackout." Anh còn so sánh đoạn riff với bài "Dirty Deeds Done Dirt Cheap" (1976) của AC/DC.[20] Ann Powers của tờ Los Angeles Times cũng nhận định phần hook của bài hát làm gợi nhớ đến bản ca "(I Just) Died in Your Arms" (1986) của Cutting Crew.[17] Nick Levine của Digital Spy cảm thấy bài hát này mang "hơi hướng vũ trườnghợp thời" giống như bài "Only Girl (In the World)" (2010) của nữ ca sĩ người Barbados Rihanna.[21]. Căn cứ vào bản phổ nhạc được Kobalt Music Publishing Inc. công khai trên trang Musicnotes.com, "Hold It Against Me" được gán số chỉ nhịp là nhịp nhạc dance mức vừa phải có tổng cộng 132 nhịp mỗi phút. Phổ nhạc gốc được biên soạn ở cung Đô thứ, nhịp 4
4
, khoảng âm vực trải dài từ G3 đến C5 và sử dụng tiến trình hợp âm Fm-Cm-Fm-Cm.[22] Về phần lời, "Hold It Against Me" chủ yếu nói về việc quyến rũ một người trên sàn nhảy[23] và phần điệp khúc là một chuỗi những câu bày tỏ tình cảm, với "If I said I want your body now, would you hold it against me?" và "'Cause you feel like paradise, and I need a vacation tonight."[b] James Montgomery của MTV đã chia sẻ sự tương đồng giữa những cảm xúc mà lời bài hát này đem lại với phần ca từ của "If U Seek Amy" (2009).[15]

Tranh cãi[sửa | sửa mã nguồn]

Sau khi "Hold It Against Me" được phát hành, The Bellamy Brothers đã đưa ra chỉ trích vì bài hát này có phần giống với bản hit năm 1979 "If I Said You Had a Beautiful Body Would You Hold It Against Me" của họ. David Bellamy tuyên bố rằng, "Về mặt chuyên môn thành thật mà nói, chúng tôi cảm thấy hoàn toàn bị ăn cắp. Biết nguồn gốc nằm ở đâu không?"[24] Luật sư Christopher E. Schmidt của hai anh em cho rằng "[điều đó] sẽ trở nên hơi kỳ lạ nếu bạn chỉ cần đẩy nhanh gấp đôi nhịp bài hát của Bellamy Brothers và kết hợp nó với phiên bản của Britney" và cũng chỉ ra đây không phải là lần đầu tiên Martin và Luke bị buộc tội vi phạm bản quyền.[25] Vào ngày 2 tháng 3 năm 2011, Martin, Luke, McKee và Billboard đã đệ đơn kiện cáo buộc hai anh em đã đưa ra những tuyên bố xuyên tạc, phỉ báng và bôi nhọ về họ.[26] Vụ kiện đã được bác bỏ vào ngày 11 tháng 8 năm 2011, sau khi The Bellamy Brothers đã gửi lời xin lỗi đến Dr. Luke và Max Martin về việc các anh em nhà Bellamy đã có những phát ngôn gây tranh cãi cũng như đưa tin không đúng sự thật về chuyện Dr. Luke và Max Martin sao chép tác phẩm của người khác lên trang web của họ.[27]

Đón nhận[sửa | sửa mã nguồn]

"Hold It Against Me" nhận được nhiều đánh giá phần lớn là tích cực từ các nhà phê bình.[28] Cây viết Rick Florino của trang Artistdirect đã chấm bài hát này bốn sao rưỡi và gọi tác phẩm là "một trong những bản nhạc đập banh nóc vũ trường bắt tai nhất của Britney". Đồng thời, anh còn cho rằng "['Hold It Against Me'] không những có thể tự hào sánh ngang các bài ca bất hủ khác của Britney như 'Womanizer', 'Gimme More' và 'Toxic', mà trong nó còn toát lên một vẻ sang trọng thanh tao tinh tế cho thấy Britney đã bước vào lãnh địa mới và đẩy ranh giới của dòng nhạc dance pop rộng ra thêm một lần nữa."[18] Nick Levine trên trang Digital Spy nhận định rằng dù "Hold It Against Me" do chính tay của Luke và Martin sản xuất nhưng sản phẩm lúc hoàn thiện thì nghe chẳng giống như những ca khúc mà họ vẫn thường hợp tác với Kesha và Katy Perry, mà thực sự "giống như một giai điệu Britney bùng nổ và hợp thời vào năm 2011."[21] Nhà phê bình Brad Wetekhi khi viết bình luận trên Entertainment Weekly thì cho rằng "'Against Me' vẫn là một Britney của ngày xưa, nghĩa là giọng ca còn lâu mới xuất sắc được, nhưng [bài nhạc này] thì đóng vai trò làm phụ kiện tuyệt vời cho những tác phẩm mang tiết tấu Euro techno sôi động [của Luke và Martin]."[29] Tom Breihan bên Stereogum khen ngợi đoạn hook của "Hold It Against Me" dù không phải hay nhất mọi thời đại nhưng vẫn bắt được tai anh.[19] Greg Kot của Chicago Tribune bình luận, "[Hold It Against Me] là một trong những đĩa đơn nghe cứng cáp hơn của Spears và nên được dùng trong việc lấp đầy danh sách ca khúc sàn nhảy cho những người nghe nhạc đang bắt đầu chán ngấy những đĩa đơn mới nhất của Katy Perry và Black Eyed Peas".[23]

Michael Cragg viết cho The Guardian đã gọi bài hát là "đủ đàng hoàng"[14] còn Rob Sheffield của Rolling Stone thì gắn bài hát với "Britney thời nguyên thuỷ" và tuyên bố rằng ca khúc sẽ "hứa hẹn những điều tuyệt vời cho album của cô ấy."[20] Jim Cantiello ở MTV khen ngợi nhạc nền và giọng ca, rồi đánh giá khúc chuyển đoạn là "phần tuyệt vời" của bài hát.[30] Jim Farber trên tờ New York Daily News đã đề cao "Hold It Against Me" là "một bài hát sẵn sàng khiêu vũ ở vũ trường" và bổ sung thêm, "Với tất cả những yếu tố đó đằng sau, cô gái 'Ôi không' ấy có thể làm điều đó lại một lần nữa", nhắc khéo đến bài hát "Oops!... I Did It Again" (2000).[31] Bill Lamb viết cho About.com gọi bài hát đó là "một trong những bài hát dance pop trưởng thành nhất" trong sự nghiệp của Spears, đồng thời khen phần điệp khúc và đoạn bridge mang màu sắc electropop. Lamb khẳng định, "Dòng nhạc pop trong năm 2011 đã có một phát nổ súng sớm vào cánh tay. ['Hold It Against Me'] sẽ mau chóng leo lên vị trí ngang hàng với những đĩa đơn hay nhất của Spears."[32] Trang web âm nhạc Popjustice đã so sánh bài hát với bản thu thử đã bị tuồn ra trước đó và đưa ra phản hồi tích cực, cho rằng mặc dù lời nhạc và giai điệu không có sự khác biệt nhưng phiên bản hoàn chỉnh của Spears thì "tốt hơn xấp xỉ một ngàn lần so với bản demo. Đó là một ca khúc tuyên ngôn cứng rắn hơn, cấp bách hơn và cực kỳ hoành tráng, nghe giống như tác phẩm của một siêu sao vậy."[33] J.D. Considine trực thuộc báo Canada The Globe and Mail đã từng cho rằng lời cáo buộc đạo nhái bài hát của Bellamy Brothers là "khập khiễng", và kết luận rằng "Hold It Against Me" là "viên kẹo ngọt hoàn hảo cho đôi tai", đồng thời ví bài hát như "thứ ham muốn có thể nghe thấy được".[34]

Tuy nhiên, một số cây bút vẫn chỉ trích "Hold It Against Me" ở phần ca từ cũng như người thể hiện nên bài hát ấy. Tom Breihan bên Stereogum, cũng như Jim Cantiello ở MTV, cho rằng điểm hấp dẫn lớn của bài hát "chỉ là đoạn điệp khúc ngớ ngẩn đó".[19][30] Breihan cũng nhận thấy bài hát "chẳng còn gì để mổ xẻ cả. Đây có lẽ là một trong những bản hit của Max Martin ít đọng lại trong đầu nhất trong thời đại của nó – có nghĩa là bài hát chỉ khá hấp dẫn chứ không phải cực kỳ hấp dẫn." Anh phê bình bài hát vẫn "chưa đủ Britney Spears trong đó" và cho rằng cô "nghe có vẻ lạnh lẽo và xa cách".[19] Brad Wetekhi bên Entertainment Weekly bảo rằng Spears dĩ nhiên chưa có cải thiện gì trong phần ca từ mà cô hát, và không có sự tiến bộ nào khi đem so với những đĩa đơn như "...Baby One More Time" (1998) hay "I'm a Slave 4 U" (2001).[29] Greg Kot trực thuộc Chicago Tribune đã bỏ qua nhận xét phần lời và cho rằng Spears nghe "buồn chán [...] tương tự như các tác phẩm gần đây nhất của cô ấy."[23] Nhà báo Edna Gundersen của USA Today tuy cũng chỉ trích ca từ thổ lộ ở phần điệp khúc giống như hai nhà phê bình kể trên nhưng cô vẫn nói rằng "Hold It Against Me" đã "truyền tải đủ cảm xúc ngây ngất của bài hát nhạc dance pop đầy chao đảo để đảm bảo sẽ có một đợt leo lên ngôi vương bảng xếp hạng khác."[35]

Diễn biến thương mại[sửa | sửa mã nguồn]

Tại Hoa Kỳ, "Hold It Against Me" vừa ra mắt thì đã phá kỷ lục phát thanh nhiều nhất trong ngày đầu tiên, ghi nhận số liệu 619 lượt phát trên trang Mediabase và 595 lượt đến từ Nielsen Broadcast Data Systems (BDS).[36] Nó thậm chí còn xác lập kỷ lục của Mediabase và trở thành bài hát có số lần phát sóng tăng nhiều nhất trong một tuần, ghi nhận gia tăng đến 3.866 lượt.[37] Billboard cho rằng rất có thể "Hold It Against Me" sẽ ra mắt ngay trên vị trí số một ở bảng xếp hạng Billboard Hot 100, nhờ vào lượng phát thanh và doanh số mua trực tuyến quá lớn, có thể vượt qua con số 400.000 bản.[38][39] Vào số ngày 29 tháng 1 năm 2011, "Hold It Against Me" đã ra mắt ở vị trí quán quân trên BXH Hot 100, giúp Spears trở thành nghệ sĩ thứ hai trong lịch sử cho ra mắt nhiều đĩa đơn ở vị trí đầu bảng, chỉ sau Mariah Carey. Đĩa đơn còn là bài hát thứ mười tám ra mắt ở vị trí số một và là bài hát quán quân thứ tư của Spears.[40] "Hold It Against Me" giúp Spears trở thành nữ nghệ sĩ thứ ba sau MadonnaJanet Jackson leo lên ngôi vị quán quân Hot 100 trong ba thập kỷ, và là nghệ sĩ thứ bảy tổng cộng.[41] Vào năm 2012, "Hold It Against Me" được người đọc bình chọn là bài hát leo lên ngôi vương xuất sắc nhất trên Hot 100 trong vòng hai năm qua, trong cuộc thăm dò mang tên "Hot 100 March Madness" của Billboard.[42]

Hot Digital Songs, "Hold It Against Me" ra mắt ở vị trí đầu bảng nhờ vào doanh số 411.000 bản thuần được tiêu thụ, phá kỷ lục trước đó thuộc về "Today Was a Fairytale" (2010) của nữ ca sĩ nhạc đồng quê Taylor Swift ở số lượt tải xuống nhiều nhất trong tuần lễ đầu tiên của nghệ sĩ nữ.[40] Kỷ lục này hiện nay đang thuộc về "Hello" (2015) của Adele với số lượt tải xuống là 1.112.000 bản trong tuần đầu.[43] "Hold It Against Me" là bài hát có doanh số trong tuần cao nhất của Spears nếu xét trên tổng thể và đứng thứ năm trong lịch sử kỹ thuật số.[44] Trong vòng bảy tuần, "Hold It Against Me" đã cán mốc một triệu lượt tải xuống và trở thành bài hát thứ tám của Spears bán được ít nhất một triệu bản.[45] "Hold It Against Me" ra mắt ở vị trí thứ 16 trên bảng xếp hạng Pop Songs của Billboard nhờ vào 4.071 lượt phát, trở thành bài hát có số lượt phát cao nhất lúc ra mắt trong lịch sử bảng xếp hạng này. Đĩa đơn còn ra mắt trong tuần đầu đồng hạng với "Frozen" (1998) của Madonna, đứng thứ nhì sau "Dreamlover" (1993) của Mariah Carey.[38] Sang tuần kế tiếp, "Hold It Against Me" leo lên vị trí thứ 10, trở thành bài hát thứ bảy trong lịch sử leo lên top 10 trong vòng hai tuần và là ca khúc đầu tiên làm được điều đó sau sáu năm.[46] Ở bảng Radio Songs, "Hold It Against Me" ra mắt ở vị trí thứ 23 nhờ vào 45 triệu lượt khán giả nghe trong tuần đầu, mà theo như Nielsen BDS thì "Against Me" là bài hát có thứ hạng ra mắt cao nhất tính từ "Touch My Body" (2008) của Carey.[40] Tính đến tháng 3 năm 2015, "Hold It Against Me" đã bán được 1,6 triệu tải xuống kỹ thuật số ở Hoa Kỳ.[47]

Ngoài Hoa Kỳ, "Hold It Against Me" hạ cánh ở vị trí thứ 10 trên bảng xếp hạng ARIA Charts và sang tuần leo lên được thứ hạng cao nhất là vị trí thứ tư, trở thành bài hát thứ 11 lọt vào vị trí top 5 của Spears và là đĩa đơn đạt hạng cao thứ chín của cô.[48] Nó được Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc (ARIA) chứng nhận đĩa bạch kim nhờ vào tổng doanh số là 70.000 đơn vị.[49] Vào ngày 17 tháng 1 năm 2011, "Hold It Against Me" ra mắt ở vị trí thứ nhất ở bảng xếp hạng New Zealand RIANZ và trở thành bài hát quán quân thứ tư của cô.[50] Vào ngày 13 tháng 1 năm 2011, bài hát ra mắt ở vị trí thứ 6 trên bảng xếp hạng Irish Singles Chart và sang tuần lên được vị trí thứ 5.[51] "Hold It Against Me" còn ra mắt ở vị trí đầu bảng tại Canadian Hot 100, trở thành bài hát quán quân thứ tư của Spears tại Canada và bài hát thứ sáu trong lịch sử ra mắt ở vị trí đầu bảng trên bảng xếp hạng này. Nhờ vào 37.000 lượt tải xuống, "Hold It Against Me" cũng ra mắt ở vị trí đầu bảng ở Canada's Digital Songs và trở thành bài hát có số lượt tải xuống cao nhất trong tuần đầu và cao thứ nhì nếu chỉ xét trong một tuần bất kỳ, sau "The Time (Dirty Bit)" (2010) của The Black Eyed Peas. "Hold It Against Me" xuất hiện ở vị trí thứ 11 trên bảng xếp hạng Hot 100 Airplay của Canada và là hạng cao nhất tính từ bài "Haven't Met You Yet" (2009) của Michael Bublé, cũng như gia nhập bảng Top 40/CHR ở vị trí thứ 12, trở thành bài hát ra mắt ở vị trí cao nhất thứ hai trong vòng 5 năm, chỉ sau "4 Minutes" (2008) của Madonna.[52]

Ở Châu Âu, sau khi được phát hành ở Anh Quốc, "Hold It Against Me" ra mắt tại vị trí thứ 6 ở UK Singles Chart và trở thành bài hát thứ 21 của Spears lọt vào bảng xếp hạng này.[53][54] Tuy nhiên, "Against Me" lại là đĩa đơn chủ đạo của một album có thứ hạng ra mắt thấp nhất của Spears.[55] Ngoài ra, "Hold It Against Me" đứng đầu bảng xếp hạng ở Bỉ (Wallonia), Đan Mạch và Phần Lan; đứng thú hai ở Bỉ (Flanders), Ý và Na Uy; đứng thứ sáu ở Tây Ban Nha, thứ bảy ở Thuỵ Sĩ; và top 20 ở Áo, cộng hoà Séc và Hà Lan.[56]

Video âm nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Phát triển[sửa | sửa mã nguồn]

"Mặc dù chúng tôi đang chọn diễn theo phương án an toàn và chưa làm chính bản thân kiệt quệ nhưng chính vì [lịch trình của] video càng ngày càng đến gần nên chúng tôi chắc chắn sẽ phải chịu đau lưng. Có lần trong lúc đang tập dợt, tôi đã cho Britney xem một phần đoạn và đó là một điều mà tôi đã thực sự mong muốn cô ấy thực hiện, và rồi cô ấy đã hốt hoảng. [...] Thật điên rồ biết bao khi bạn lần đầu thấy một thứ như vậy, cách mà nó thật áp đảo, nhất là khi bạn chưa bao giờ vào phòng [tập vũ đạo] chuyên nghiệp trong vòng một năm. [...] Tôi cho rằng bạn có thể sẽ mong đợi những điều không ngờ tới từ Britney. Cô ấy sẽ sẵn sàng chấp nhận mọi rủi ro nếu như là thời trang, là vũ đạo và cũng như âm nhạc — cô ấy đã trưởng thành rất nhiều rồi và sắp sửa cô ấy sẽ tới tuổi thứ 30. Cô ấy là một người phụ nữ độc lập mạnh mẽ và tôi nghĩ cô ấy muốn phô bày điều đó."

—Brian Friedman phát biểu với MTV về video âm nhạc.[57]

Video âm nhạc của "Hold It Against Me" được quay vào các ngày 22 và 23 tháng 1 năm 2011,[58] do Jonas Åkerlund làm đạo diễn và Brian Friedman phụ trách phần biên đạo.[59][60] Theo như lời phát biểu của người quản lý Larry Rudolph, Spears đã trở thành người hâm mộ của các tác phẩm do Åkerlund thực hiện sau khi xem video ca nhạc của "Ray of Light" (1998) do Madonna trình bày, nhưng họ chưa từng làm việc cùng nhau trong quá khứ và Spears cảm thấy mang nợ "sự hiện diện của đạo diễn Åkerlund và thời gian của cô". Spears và Åkerlund đã sớm gặp nhau để tạo chủ đề và lên ý tưởng thực hiện khác nhau cho đến khi "[ý tưởng chủ đề] tự dưng nó loé lên" theo như Rudolph.[61] Buổi thử sức được tổ chức vào ngày 22 tháng 12 năm 2010, và các vũ công sẽ phải tìm hiểu lối nhảy theo "Criminal Intent" (2010) của Robyn.[62] Trong một cuộc phỏng vấn sau 10 năm kể từ ngày phát hành video âm nhạc, Åkerlund tiết lộ rằng video ca nhạc đã có dự định sẽ được thực hiện ghi hình lấy bối cảnh thực tế, nhưng đến cuối cùng thì đành phải chọn quay tại một trong những trường quay lớn bên Paramount. Ông thẳng thắn nói, "Đó có thể là một trong những buổi ghi hình khủng nhất mà tôi từng có." Åkerlund còn nhấn mạnh, video ca nhạc tập trung nhiều kiểu tạo hình, các cảnh khiêu vũ nhào lộn, cảnh đánh nhau và trải qua rất nhiều công đoạn tiền sản xuất.[63]

Ngày 22 tháng 1 năm 2011, Spears đã tweet về buổi quay video. Cô nói rằng đó là "một trải nghiệm đáng kinh ngạc" và sẽ "là một trong những video hay nhất mà chị từng thực hiện."[58] Sang ngày 2 tháng 2, các lời cáo buộc đến từ TMZ cho rằng Åkerlund đã quyết định sử dụng người nhảy đóng thế cho Spears để che đậy chuyện cô vẫn chưa tập luyện thành thục các động tác của mình. Cả người đại diện lẫn đạo diễn của Spears đều phủ nhận tin đồn, và Åkerlund lên tiếng: "[Britney] đã tập luyện rất cừ trong suốt cả quá trình rồi. [...] Tôi đã ở đây đủ lâu để biết khi nào một nghệ sĩ cống hiến hết mình, và đối với tôi điều đó không thể tuyệt vời hơn thế này. Video này sẽ tuyệt vời lắm đấy! Tất cả đều là nhờ công Britney."[64] Quản lý của cô, Larry Rudolph sau đó đã xác nhận rằng video có sử dụng người đóng thế, nhưng chỉ dành cho những cảnh Spears chiến đấu với chính mình.[65] Cảnh đánh nhau được võ sĩ người Mỹ gốc Á Steven Ho biên đạo.[66] Anh tiết lộ rằng Spears đã kết hợp các động tác đã học được trong các buổi diễn tập với "hương vị riêng của cô ấy", bằng cách bổ sung thêm một chút động tác Shuffle ở gót chân. Độ dài của những chiếc váy cũng là một vấn đề và đã nổ ra các cuộc tranh luận về việc nên thu gọn lại phần đầm để đảm bảo vấn đề an toàn. Ho đã tận tình giải thích rằng phần đầm dài được thêm vào "như thể thứ đó là những lưỡi dao sắc bén, khiến Britney có lý do muốn né nó đi."[66]

Friedman tiết lộ thêm rằng người vợ của Jonas là bà B. Åkerlund đã trở thành nhà tạo mẫu cho video. Tài năng của bà B. được biết đến sau những lần hợp tác với Madonna và Lady Gaga, nhưng Friedman nhấn mạnh "Britney sẽ không giống như Gaga."[67] B. về sau còn nhận xét về thời trang của video thêm rằng, "Chúng tôi định đưa phong cách thời trang cao cấp punk-rock vào trong video, cùng với một chút quyến rũ." Ở phân cảnh váy cưới màu trắng, bà B. đã làm việc với hiệu thời trang Tom Tom để thiết kế váy tự tuỳ biến. Các hạt pha lê Swarovski được dùng để "sáng tạo cánh tay", và phần vòng cổ của Dannijo cùng với đôi găng tay của La Cracia được làm phụ kiện giúp tô điểm cho ngoại hình của Spears.[68] Trong cảnh giằng co, cả Spears lẫn người đóng thế đều mặc kiểu váy tự tinh chỉnh của bà B. hợp tác với Falguni và Shane Peacock, và cũng như hai người đều mặc giày cao gót thể thao của XTC. Ở đoạn vũ đạo, Spears mặc trang phục do bà B. và Skin Graft thiết kế, còn trang sức thì của Tom Binns. Đôi ủng là của chính Spears và hoàn toàn được phủ lên các viên pha lê Swarovski. Ở cảnh micro, Spears mặc áo váy có phần vai màu đỏ "trông như kiểu đầu lâu" được Yasmen Hussein thiết kế cho Swarovski Runway Rocks. Cô còn chăm chút hoàn thiện vẻ ngoài thêm bằng khuyên tai và vòng cổ của Tom Binns và nhẫn đeo của Loree Rodkin. Ở cảnh cuối, Spears mặc bộ váy đen bó sát người bằng chất liệu da của Bordelle đi kèm với nịt tất. Cô tạo điểm nhấn cho vẻ ngoài bằng chiếc vòng cổ của Noir và đôi bốt được trang trí bằng pha lê Swarovski.[68] Sau khi được phát hành, video âm nhạc "Hold It Against Me" đã mang về cho Spears 500.000 đô la Mỹ kinh phí đặt quảng cáo nhãn hàng cho Sony, Make Up For EverPlentyofFish,[69] khiến video của đĩa đơn này trở nên tốn kém.

Nội dung[sửa | sửa mã nguồn]

Cảnh Spears phun sơn màu lên bộ váy trắng đầm dài làm gợi nhớ đến video âm nhạc "Bedtime Story" của Madonna.[70]

Nội dung của video âm nhạc tuy theo nghĩa đen là thể hiện Spears trong vai một ngôi sao nhạc pop lao xuống Trái Đất dưới dạng một thiên thạch để tìm kiếm danh tiếng ở hành tinh ấy,[71] nhưng ẩn ý trong đó là sự thăng trầm trong cuộc đời của Spears: lúc còn trên đỉnh vinh quang từ những năm tháng đầu sự nghiệp, lúc tụt dốc bế tắc do trải qua nhiều vấn đề cá nhân và lúc Spears tái xuất với công chúng.[63] Cảnh đầu tiên của video là một thiên thạch đang hướng về phía Trái Đất và toả sáng một thành phố sau khi đáp đất, ý chỉ ngay từ lúc Spears trở nên nổi tiếng thì cô đã toả sáng mau lẹ trong sự nghiệp vào cuối thập niên 1990 và "Britney Spears" trở thành cái tên mà khắp mọi nơi ai ai cũng bàn tán.[72] Sau cảnh đó là xen kẽ những phân đoạn đen trắng nhiễu hình của Spears đang chuẩn bị vào âm trường, và hiện lên lần lượt các từ khoá "Britney Spears" và "Hold It Against Me" với kiểu chữ nhiều màu được lấy ý tưởng từ Def Leppard.[73] Spears khi ấy đang mặc quần đùi và để lộ phần bụng trần ở âm trường, còn các vũ công nam thì vừa khiêu vũ vừa thao tác mặc trang phục màu trắng xung quanh cô. Xung quanh cảnh quay là những chiếc máy ảnh và ánh đèn, tượng trưng cho việc cô liên tục bị soi mói, bị chĩa máy ảnh ghi hình và bị giới truyền thông săn lùng.[72] Đến cảnh quay điệp khúc, Spears diện một bộ váy cưới màu trắng có phần đầm rất dài phủ xuống dưới sàn, cảnh phòng khi đó có dạng hình trụ toàn là kim loại với nhiều sợi dây cáp. Bối cảnh đó mang phong cách tương lai và chiếc váy bồng bềnh gợi nhớ đến video ca nhạc của Madonna, "Bedtime Story" (1995).[70] Spears đang từ từ được nâng lên theo chiều dọc trong căn phòng hình trụ và các tivi xung quanh đang chiếu lại những video âm nhạc cũ của cô, tượng trưng cho sự nghiệp ngày càng phát triển của cô trong ngành công nghiệp âm nhạc.[74] Đến phần lời thứ hai là lúc quay trở lại cảnh khiêu vũ trước và lẫn theo đó là những cảnh ngắn Spears mặc bộ áo có phần vai giống đầu lâu màu đỏ cùng với những chiếc micro đang chĩa xung quanh cô.[74] Kéo theo đó là các phân cảnh đôi môi đỏ mọng lớn đang hát, giống với phần giới thiệu mở đầu của bộ phim The Rocky Horror Picture Show năm 1975.[75]

Sau phần điệp khúc thứ hai là thời điểm Spears đang mất dần khả năng kiểm soát tinh thần vì áp lực của sự nổi tiếng, gợi nhớ đến sự suy sụp của cô trong quá khứ.[71] Phần chuyển đoạn đến cũng là lúc Spears bắt đầu phun sơn nhiều màu loạn xạ từ các ống nhỏ tiêm tĩnh mạch (IV) ở ngón tay, làm bẩn cả căn phòng, bộ váy trắng và các tivi đang chiếu, tượng trưng cho sự sa ngã của Spears cách đây bốn năm và tên cô bị đem ra bôi bác.[76] Xen vào đó là cảnh hai phiên bản Spears, người mặc áo váy đuôi xanh dương đậm, người mặc áo váy đuôi đỏ, đang đánh nhau cho thấy cô đang chiến đấu với con quỷ bên trong cô. Kế đến, cả ba phiên bản Spears (hai phiên bản đánh nhau và một phiên bản mặc áo váy cưới dính sơn) đều ngã xuống kiệt sức, nghĩa là cuộc đời cô khi ấy đã gần như bên bờ vực sụp đổ. Giữa lúc các cảnh xen kẽ của Spears trong âm trường vẫn hiện diện, các phiên bản khác của cô từ từ đứng dậy trở lại tức có nghĩa Spears sẽ không chịu bỏ cuộc, sẵn sàng vực dậy và tái xuất.[77] Cuối cùng là cảnh Spears mặc một chiếc váy ngắn màu đen bó sát người với các vũ công cũng mặc đồ đen giống Spears đang khiêu vũ đoạn hát điệp khúc cao trào cuối trên sân khấu, cùng với hoa giấy và pháo hoa làm nền xung quanh họ. Cảnh cuối cùng này cho thấy Spears sẽ là một siêu sao như trước đây, đang quay trở lại để đòi lại ánh hào quang của mình.[74] Kết thúc video là một dấu chấm hỏi (?) nhiều màu rất lớn, tượng trưng cho điều gì đó bí ẩn.

Phát hành và tiếp nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Những vũ công đội mũ trùm đầu trong những cảnh phòng kim loại hình trụ được so sánh với Graeae, ba chị em cùng chia nhau sử dụng một mắt trong Thần thoại Hy Lạp.[70]

Spears thông báo trên trang Twitter cá nhân của cô vào ngày 4 tháng 2 năm 2011 rằng trong vòng mười bốn ngày kế tiếp thì mỗi ngày sẽ một đoạn nhỏ nhá hàng được đăng tải. Đoạn teaser đầu tiên là cảnh Spears mặc áo cưới trắng váy dài quanh những chiếc TV. Ánh sáng và camera đều đang chĩa về phía gương mặt của cô.[78] Các đoạn khác thì cho người xem biết trước cảnh Spears mặc áo màu đỏ, nhảy với các vũ công nam và những màn hình TV đang chiếu các video âm nhạc trong sự nghiệp quá khứ của Spears.[79] James Montgomery bên MTV khen những đoạn xem trước là "rất xuất sắc" và "đã giúp [Spears] có dấu ấn trong lịch sử quảng bá", rồi anh so sánh việc tận dụng mạng xã hội của Spears và đội ngũ của cô với các chiến dịch trước đó của Kanye West, Radioheadiamamiwhoami.[80] Ngày 6 tháng 2, Spears đã tweet: "Vừa mới đăng cảnh mới của #HIAM. THẬTTTT là vui biết mấy khi [chị] đem đi chia sẻ đó!"[79] Video âm nhạc được công chiếu ở MTV vào ngày 17 tháng 2 lúc 21:55 EST[81] và kế đến là buổi trò chuyện trực tiếp của khách mời đặc biệt tại MTV.com vào lúc 23:00 EST.[82]

Montgomery còn bảo rằng dẫu cho video âm nhạc của "Hold It Against Me" đã vượt qua những tác phẩm mang tính biểu tượng nhất của Spears về mặt cảnh quay hoành tráng nhưng nó vẫn tỏ ra khiêm tốn về mặt chủ đề. Anh tóm gọn lại bằng việc đánh giá video âm nhạc của "Against Me" là một trong những video xuất sắc mọi thời đại của Spears, rồi anh bổ sung thêm "trong [video] còn có nghệ thuật chân thực, làm cho nó không những vừa đẹp mắt mà lại còn quyền lực để thưởng thức."[83] Montgomery nhận thấy video của "Hold It Against Me" được lấy cảm hứng từ Graeae, iamamiwhoami, bộ phim ngắn Runaway của Kanye West, video âm nhạc "Indestructible" của Robyn, "Bedtime Story" và "Die Another Day" của Madonna, thương hiệu The Matrix, Mortal Kombat, The Rocky Horror Picture Show và bức hoạ Cam de Leon Ocular Orifice được sử dụng trong một vài bìa album Ænima của Tool.[70] Matthew Perpetua thuộc tờ Rolling Stone gọi video của "Against Me" là "một cuộc tấn công thị giác toàn diện" và bổ sung thêm rằng "nó là một sự kết hợp của bất cứ thứ gì mà chúng ta đã mong chờ từ Britney" chẳng hạn như trang phục khiêu gợi và vũ đạo phức tạp.[84] Aaron Parsley phía tạp chí People tin rằng cảnh đánh nhau sẽ điểm tô sáng của video nhưng lại chỉ trích việc đặt quảng cáo sản phẩm vào trong đó.[85] Bill Lamb của About.com bảo rằng video về mặt hình ảnh thì rất xuất sắc, bất chấp anh cảm thấy thật "khó hiểu" rằng liệu video của "Hold It Against Me" có "gây chấn động giống như" những clip bên "Baby One More Time" và "Toxic" hay không.[86] Willa Paskin viết cho tạp chí New York đã coi video ca nhạc của bài hát là "một video khiêu vũ đầy năng lượng và chuyên nghiệp" nhưng cũng nhấn mạnh "[nhờ có tạo hình đẹp mà] có thể che giấu sự thật căn bản là cô ấy không còn trong tư thế khiêu vũ nữa mà thực sự tư thế biểu diễn của cô ấy vẫn như trước đây."[75]

Leah Greenblatt của Entertainment Weekly ngợi khen tài đạo diễn của Åkerlund nhưng chỉ trích Spears vì thiếu sự tham gia và bảo rằng, "Thật khó để mà không thắc mắc: Liệu Britney có vui vẻ gì hay không?"[87] Ed Masley bên The Arizona Republic cho biết video phù hợp với sự cường điệu của các đoạn giới thiệu và nói thêm rằng đây chắc chắn là một trong những video "nghệ sĩ hơn" của Spears cho đến nay.[74] Drew Grant viết cho Salon.com nói rằng không cần bận tâm đến vấn đề có quảng bá sản phẩm hay không, video "vẫn có hình ảnh ấn tượng, đáp ứng được Ma trận kết hợp với cảm xúc bước ra từ phim The Cell có thể sẽ khiến cho Lady Gaga ước gì cô ấy đã nghĩ đến những giọt sơn phun từ IV trước tiên."[76] Alex Catarinella biên tập bên The Huffington Post coi đây là tác phẩm vĩ đại và trưởng thành nhất của Spears, đồng thời cho biết video cuối cùng có ý tưởng đơn giản và nhận xét thêm, "Ngôi sao nhạc pop hoàn hảo một thời đã trở lại và mang đến cho người hâm mộ một diện mạo vừa mới vừa cũ kỹ và đúng vậy, mạnh mẽ hơn Britney ngày hôm qua."[88] Việc đặt quảng cáo sản phẩm vào trong video "Hold It Against Me" đã khiến giới truyền thông chỉ trích nặng nề. Megan Gibson của Time nói rằng video này "xúc phạm đến mức giới hạn" và bình luận, "Chúng ta cũng hiểu rằng thời điểm kinh tế đang khó khăn, nhưng họ không thể tinh tế hơn một chút sao?" Liz Kelly từ The Washington Post chỉ trích đoạn video ca nhạc là "quảng cáo trá hình" và nói rằng, "Tôi muốn viết thêm lắm, nhưng cảm thấy muốn Make Up For Ever một chút và lao đi mua một chiếc TV màn hình phẳng của Sony quá đi thôi."[89] Video dành cho "Hold It Against Me" đã nhận được chứng nhận ở nền tảng số Vevo trên trang YouTube.[90]

Biểu diễn trực tiếp[sửa | sửa mã nguồn]

Spears biểu diễn "Hold It Against Me" trong chuyến lưu diễn Femme Fatale Tour

Spears lần đầu biểu diễn "Hold It Against Me" tại hộp đêm Rain Nightclub ở khách sạn kiêm sòng bạc Palms Casino Resort vào ngày 25 tháng 3 năm 2011. Sau khi chiếu một loạt video âm nhạc của mình, Spears xuất hiện trên sân khấu mặc bộ cánh bodysuit đính sequin và được các vũ công nam vây quanh. Theo Jocelyn Vena bên MTV, buổi biểu diễn đó còn "có trò tung tóc gợi cảm và máy tạo gió."[91] Tiếp đó, Spears biểu diễn "Big Fat Bass" và "Till the World Ends".[91] Ngày 27 tháng 3, cô ghi hình biểu diễn các bài hát tại Bill Graham Civic Auditorium và công chiếu ở Good Morning America vào ngày 29 tháng 3.[92] Cùng ngày, Spears biểu diễn "Hold It Against Me", "Big Fat Bass" và "Till the World Ends" cho chương trình Jimmy Kimmel Live!.[93] "Hold It Against Me" được chính thức đưa vào sử dụng làm bài hát tiết mục mở đầu cho chuyến lưu diễn Femme Fatale Tour năm 2011. Sau khi biển hiệu neon đề chữ "Femme Fatale" được nâng lên từ sân khấu, chương trình bắt đầu bằng đoạn phim chứa cảnh Spears bị cảnh sát bắt giữ sau một cuộc truy đuổi. Cô nói "tôi chẳng có ngây thơ vô tội đến mức đó đâu" cùng với một câu lời bài hát "Oops!... I Did It Again", màn hình chiếu phim bắt đầu tách về hai phía và Spears hiện diện trước mắt khán giả. Khi đó, cô đang đứng trên khán đài được làm bằng thanh kim loại, mặc bộ đồ màu bạc và biểu diễn "Hold It Against Me" cùng với sự hỗ trợ từ các vũ công mặc trang phục màu trắng và màu bạc.[94] Andrew Matson viết trên tờ The Seattle Times rằng bài hát trình diễn mở màn này đã "thiết lập nên nhịp độ [của đêm diễn]: nóng bỏng và đầy sức nặng."[95]

Phiên bản hát lại[sửa | sửa mã nguồn]

Nam ca sĩ thu âm người Mỹ Miguel đã hát lại "Hold It Against Me" ở Billboard.[96] Ca sĩ kiêm nhạc sĩ người Anh Taio Cruz cũng cover bài hát, sử dụng yếu tố R&B ở phiên bản của anh.[97] Marines từ phi đội trực thăng Rein 266 và HMLA 169 đã đăng tải một video lên YouTube cảnh họ đang nhép môi theo bài hát tại căn cứ ở Afghanistan. Spears đăng tải video lên trang Twitter của cô và nói, "Tôi YÊU [video] này quá đi thôi... tôi luôn biết những người lính của chúng ta mạnh mẽ thế nào mà! Cảm ơn mọi người vì đã làm tất cả mọi thứ."[98] Ban nhạc pop Selena Gomez & the Scene đã biểu diễn tri ân Spears trong chuyến lưu diễn We Own the Night Tour năm 2011 của họ gồm "Hold It Against Me" cùng với các bài hát liên khúc "...Baby One More Time", "(You Drive Me) Crazy", "Oops!... I Did It Again", "I'm a Slave 4 U" và "Toxic", tương tự như Chris Cox Megamix trong album Greatest Hits: My Prerogative (2004).[99] Trong một tập phim Glee mang tựa đề "Britney 2.0" vào năm 2012, nhân vật Brittany Pierce của Heather Morris đã cover lại ca khúc.[100] Bài hát còn được Krewella lấy mẫu cho ca khúc "Feel Me",[101] còn Sabrepulse thì lấy mẫu cho "Paradise".[102]

Danh sách bài hát và định dạng[sửa | sửa mã nguồn]

Đội ngũ sản xuất[sửa | sửa mã nguồn]

Phần ghi công đội ngũ được lấy từ phần ghi chú ở CD album của Femme Fatale.[103]

Bảng xếp hạng[sửa | sửa mã nguồn]

Chứng nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Quốc giaChứng nhậnDoanh số
Úc (ARIA)[162]Bạch kim70.000^
México (AMPROFON)[163]Vàng30.000*
New Zealand (RMNZ)[164]Vàng7.500*
Hàn Quốc (Gaon)672.356[165]
Thụy Điển (GLF)[166]2× Bạch kim40.000double-dagger
Anh Quốc (BPI)[167]Bạc200.000double-dagger
Hoa Kỳ (RIAA)[168]2× Bạch kim2.000.000double-dagger

* Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ.
^ Chứng nhận dựa theo doanh số nhập hàng.
double-dagger Chứng nhận dựa theo doanh số tiêu thụ+stream.

Lịch sử phát hành[sửa | sửa mã nguồn]

Ngày phát hành và định dạng của "Hold It Against Me"
Quốc giaNgàyĐịnh dạngHãng thu âmChú thích
Nhiều10 tháng 1, 2011Phát trực tuyếnJive
Nhiều[c]11 tháng 1, 2011Tải kỹ thuật sốSony Music
Hoa KỳJive
Brazil12 tháng 1, 2011Sony Music
Ba Lan
Anh Quốc17 tháng 1, 2011RCA
Hoa Kỳ18 tháng 1, 2011Contemporary hit radioJive
Đức11 tháng 2, 2011Tải kỹ thuật sốSony Music
18 tháng 2, 2011Đĩa CD
Hồng Kông25 tháng 3, 2011

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Tạm dịch: "Hãy dâng cho em điều gì đó sung sướng, không thể đợi được nữa em muốn nó ngay bây giờ / Đập vào như đậy nắp mui xe và cho em thấy cách anh thực hiện thế nào đi."
  2. ^ Tạm dịch: "Nếu như em nói rằng em muốn cơ thể của anh ngay lúc này thì liệu anh có vì điều đó mà ác cảm với em không? / Bởi vì anh đem lại cảm giác như thiên đường, còn em thì cần một kỳ nghỉ đêm nay."
  3. ^ Gồm có 16 quốc gia: Úc, Canada, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Hy Lạp, Ý, Ireland, Mexico, Hà Lan, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Aswad, Jem (ngày 11 tháng 1 năm 2011). “Single Review: Britney Spears, 'Hold It Against Me' [Đánh giá đĩa đơn: Britney Spears, 'Hold It Against Me']. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  2. ^ a b “Britney Spears Set To Release New Single 'Hold It Against Me' On Tuesday, January 11th” [Britney Spears chuẩn bị phát hành đĩa đơn mới 'Hold It Against Me' vào thứ Ba, ngày 11 tháng 1] (bằng tiếng Anh). Jive Records. ngày 7 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  3. ^ Higgins, Bill (ngày 7 tháng 9 năm 2017). “Bonnie McKee on Writing Hits for Pop's Leading Ladies: 'Britney Spears Is Just All Sex, All Day' (Q&A)” [Bonnie McKee kể về việc viết những bản hit cho những quý cô hàng đầu nhạc Pop: 'Britney Spears chỉ toàn tình dục, cả ngày' (Q&A)]. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  4. ^ Knopper, Steve (ngày 2 tháng 2 năm 2011). “Exclusive: Britney Spears' Producer Dr. Luke Reveals 'Femme Fatale' Details” [Độc quyền: Nhà sản xuất của Britney Spears, Dr. Luke tiết lộ chi tiết về 'Femme Fatale']. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  5. ^ Dinh, James (ngày 9 tháng 12 năm 2010). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Could Be Next Single” [Britney Spears' 'Hold It Against Me' có thể là đĩa đơn tiếp theo] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  6. ^ Herrera, Monica (ngày 6 tháng 12 năm 2011). “Britney Spears' New Album Is 'Amazing', Pauly D Promises” [Album mới của Britney Spears sẽ 'tuyệt vời', Pauly D hứa hẹn]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  7. ^ Barshad, Amos (ngày 6 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears's New Single Is Here! Sort Of!” [Đĩa đơn mới của Britney Spears đã có mặt! Kiểu kiểu như vậy!]. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  8. ^ “Britney Spears Confirms New Single Out Next Tuesday” [Britney Spears xác nhận đĩa đơn mới sẽ được tung vào thứ ba tới] (bằng tiếng Anh). Celebuzz. ngày 6 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  9. ^ Turner, Sadao (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Listen to Britney Spears' New Single "Hold It Against Me" [Audio]” [Nghe đĩa đơn mới "Hold It Against Me" của Britney Spears] (bằng tiếng Anh). Ryan Seacrest. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  10. ^ Britney Spears [@britneyspears] (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Don't #HOLDITAGAINSTME for coming out early. I couldn't wait any longer. Hope you don't mind..... - Britney” ["Đừng có #HOLDITAGAINSTME vì chuyện ra mắt sớm. Chị chẳng thể nào chờ đợi lâu hơn được nữa. Mong các em đừng cảm thấy bị phiền..... - Britney] (Tweet) (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023 – qua Twitter.
  11. ^ “New Britney Spears Song, 'Hold it Against Me', Is Leaked (Video)” [Bài hát mới của Britney Spears, 'Hold it Against Me', bị rò rỉ (Video)]. Slate (bằng tiếng Anh). ngày 10 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  12. ^ a b Copsey, Robert (ngày 14 tháng 1 năm 2011). “Britney changes UK single release date” [Britney changes UK single release date] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  13. ^ a b c d e Robinson, Peter (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “So, the new Britney single...” [Vì vậy, đĩa đơn mới của Britney...] (bằng tiếng Anh). Popjustice. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  14. ^ a b c d Cragg, Michael (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “New music: Britney Spears - Hold It Against Me” [Nhạc mới: Britney Spears - Hold It Against Me]. The Guardian (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  15. ^ a b Montgomery, James (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Inspires Our Inner Pickup Artist” [Britney Spears' 'Hold It Against Me' truyền cảm hứng cho nghệ sĩ do chúng tôi nội bộ lựa chọn] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  16. ^ a b “Hold It Against Me - Single by Britney Spears” [Hold It Against Me - Đĩa đơn của Britney Spears] (bằng tiếng Anh). iTunes Store. ngày 11 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  17. ^ a b Powers, Ann (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Snap Judgment: 'Hold It Against Me' by Britney Spears” [Tóm tắt phán quyết: 'Hold It Against Me' của Britney Spears]. Los Angeles Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  18. ^ a b Florino, Rick (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears 'Hold It Against Me' Single Review — 4.5 out of 5 Stars” [Đánh giá đĩa đơn 'Hold It Against Me' của Britney Spears - 4,5 trên 5 sao] (bằng tiếng Anh). Artistdirect. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  19. ^ a b c d Breihan 2023.
  20. ^ a b Sheffield, Rob (ngày 10 tháng 1 năm 2011). 'Hold It Against Me' Is Primo Britney” ['Hold It Against Me' là Primo Britney]. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  21. ^ a b Levine, Nick (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Why we're in love with the new Britney single” [Tại sao chúng ta lại yêu thích đĩa đơn mới của Britney] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  22. ^ Gottwald, Lukasz; Jomphe-Lepine, Mathieu; McKee, Bonnie; Martin, Max (2011). “Digital Sheet Music – Britney Spears – Hold It Against Me” [Phổ nhạc kỹ thuật số – Britney Spears – Hold It Against Me] (bằng tiếng Anh). Musicnotes. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 2 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  23. ^ a b c Kot, Greg (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears debuts new single, 'Hold it Against Me' [Britney Spears ra mắt đĩa đơn mới "Hold it Against Me"]. Chicago Tribune (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  24. ^ The Salt Lake Tribune Staff (ngày 11 tháng 1 năm 2011). “Is Britney Spears ripping off the Bellamy Brothers with new single?” [Có phải Britney Spears đang đạo nhái Bellamy Brothers bằng đĩa đơn mới?]. The Salt Lake Tribune (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  25. ^ “Bellamy Brothers still considering legal action against Britney Spears” [Bellamy Brothers vẫn đang xem xét hành động pháp lý chống lại Britney Spears]. The Salt Lake Tribune (bằng tiếng Anh). ngày 22 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  26. ^ Christman, Ed (ngày 4 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears' 'HIAM': Do Bellamy Brothers Have an Infringement Case?” [Britney Spears' 'HIAM': Bellamy Brothers có vi phạm pháp luật không?]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  27. ^ “Luke - Defamation Lawsuit Over Spears Single Dropped” [Luke - Vụ kiện phỉ báng đĩa đơn của Spears bị hủy bỏ]. Contactmusic.com (bằng tiếng Anh). ngày 4 tháng 9 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  28. ^ Reporter, AOL (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears' Critics Not Holding Comeback Song Against Her” [Các nhà phê bình của Britney Spears không vì bài hát trở lại mà ác cảm với cô ấy] (bằng tiếng Anh). AOL. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  29. ^ a b Wete, Brad (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' leaks early: What do you think?” [Britney Spears' 'Hold It Against Me' bị rò rỉ sớm: Bạn nghĩ sao?]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  30. ^ a b Cantiello, Jim (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears Defies Pop Music Rule Book: Don't Hold It Against Her” [Britney Spears thách thức cuốn sách quy tắc nhạc Pop: Đừng vì chuyện đó mà ác cảm cô ấy] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  31. ^ Farber, Jim (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Hold It Against Me” [Hold It Against Me]. New York Daily News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  32. ^ Lamb, Bill (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears' "Hold It Against Me" Is Out...Early” ["Hold It Against Me" của Britney Spears sẽ ra mắt...sớm] (bằng tiếng Anh). About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  33. ^ Gamboa, Glenn (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Britney plays it safe with new single” [Britney chơi an toàn với đĩa đơn mới]. Newsday (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  34. ^ Considine, J.D. (ngày 11 tháng 1 năm 2011). “Essential tracks: Four songs you need to hear” [Những bài hát thiết yếu: Bốn bài hát bạn cần nghe]. The Globe and Mail (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  35. ^ Gundersen, Edna (ngày 10 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' is an easy pickup” [Britney Spears' 'Hold It Against Me' là một bài hát dễ nghe]. USA Today (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  36. ^ Vena, Jocelyn (ngày 11 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears Breaks Radio Records, Rumored To Perform At Grammys” [Britney Spears phá kỷ lục radio, được đồn sẽ biểu diễn tại lễ trao giải Grammy] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  37. ^ “Britney Spears Breaks Mediabase Records With 'Hold It Against Me' [Britney Spears phá kỷ lục Mediabase với 'Hold It Against Me'] (bằng tiếng Anh). All Access Music Group. ngày 17 tháng 1 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  38. ^ a b Trust, Gary (ngày 17 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Soars Onto Pop Songs Chart” [Britney Spears' 'Hold It Against Me' tăng vọt trên bảng xếp hạng các bài hát nhạc Pop]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  39. ^ Caulfield, Keith; Pietroluongo, Silvio (ngày 13 tháng 1 năm 2011). “Chart Moves: Edward Sharpe, Usher, Gwyneth Paltrow, Britney Spears” [Biến động xếp hạng: Edward Sharpe, Usher, Gwyneth Paltrow, Britney Spears]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  40. ^ a b c Trust, Gary (ngày 19 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Debuts Atop Hot 100” ["Hold It Against Me" của Britney Spears đứng đầu bảng xếp hạng Hot 100]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  41. ^ Gary, Trust (ngày 11 tháng 2 năm 2011). “Ask Billboard: Britney Spears' '3' Decades of No. 1s” [Hỏi Billboard: '3' thập kỷ quán quân của Britney Spears]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 6 năm 2014. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  42. ^ “Hot 100 March Madness: The Winner Is...” [Hot 100 March Madness: Người chiến thắng là...]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  43. ^ “Adele Says 'Hello' to No. 1 Hot 100 Debut; First Song to Sell 1 Million Downloads in a Week | Billboard”. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  44. ^ Paul, Grein (ngày 19 tháng 1 năm 2011). “Week Ending Jan. 16, 2011: Songs: Britney Tops Taylor” [Kết thúc tuần 16/01/2011: Ca khúc: Britney dẫn trước Taylor] (bằng tiếng Anh). Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  45. ^ Grein, Paul (ngày 2 tháng 3 năm 2011). “Week Ending Feb. 27, 2011: Songs: Judge J.Lo” [Kết thúc Tuần 27/02/2011: Ca khúc: Judge J.Lo] (bằng tiếng Anh). Yahoo! Music. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  46. ^ Trust, Gary (ngày 24 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears Speeds Into Pop Songs Top 10” [Britney Spears tăng tốc lọt vào Top 10 ca khúc nhạc Pop]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  47. ^ Trust, Gary (ngày 24 tháng 3 năm 2015). “Ask Billboard: Britney Spears's Career Sales” [Hỏi Billboard: Doanh thu trong sự nghiệp của Britney Spears]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 3 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  48. ^ a b "Australian-charts.com – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Anh). ARIA Top 50 Singles. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  49. ^ “ARIA certification” [Chứng nhận ARIA] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. ngày 28 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  50. ^ a b "Charts.nz – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Anh). Top 40 Singles. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  51. ^ “Top 50 Singles, Week Ending 20 January 2011” [Top 50 đĩa đơn tuần của ngày 20 tháng 1 năm 2011] (bằng tiếng Anh). GfK Chart-Track. Bản gốc lưu trữ ngày 9 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  52. ^ “Britney Spears Scores Rare N°1 Debut” [Britney Spears đạt được thành tích hiếm gặp là ra mắt ở vị trí số 1] (PDF). Billboard (bằng tiếng Anh). Nielsen Holdings. ngày 19 tháng 1 năm 2011. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 18 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  53. ^ “Official Singles Chart on 23/1/2011” [Official Singles Chart vào ngày 23/1/2011] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  54. ^ “Bruno Mars makes it a rare double” [Bruno Mars ăn cú đúp hiếm] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. ngày 23 tháng 1 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  55. ^ “Britney Spears” [Britney Spears] (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  56. ^ “ultratop.be - Britney Spears - Hold It Against Me” [ultratop.be - Britney Spears - Hold It Against Me] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Hung Medien. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  57. ^ Dinh, James (ngày 14 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears Taking Risks For 'Hold It Against Me' Video” [Britney Spears liều mình cho video 'Hold It Against Me'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  58. ^ a b Vena, Jocelyn (ngày 24 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears Tweets First Look At 'Hold It Against Me' Video” [Britney Spears tweet cái nhìn đầu tiên về video 'Hold It Against Me'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  59. ^ Vena, Jocelyn (ngày 18 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Video To Be Directed By Jonas Akerlund” [Video "Hold It Against Me" của Britney Spears do Jonas Akerlund đạo diễn] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  60. ^ Turner, Sadao (ngày 6 tháng 1 năm 2011). “Ryan Gets First Listen To New Britney Spears Single 'Hold It Against Me' [Ryan lần đầu tiên nghe đĩa đơn mới 'Hold It Against Me' của Britney Spears] (bằng tiếng Anh). Ryan Seacrest. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  61. ^ Vena, Jocelyn; Cantiello, Jim (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' Femme Fatale Is Her Ray Of Light, Manager Says” [Người quản lý nói rằng Femme Fatale của Britney Spears là tia sáng của cô ấy] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  62. ^ Dinh, James (ngày 29 tháng 12 năm 2010). “Britney Spears To Premiere 'Hold It Against Me' On January 7” [Britney Spears sẽ ra mắt 'Hold It Against Me' vào ngày 7 tháng 1] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  63. ^ a b Urbanek, Sydney (ngày 18 tháng 2 năm 2021). “Jonas Åkerlund Talks 10 Years of Britney's 'Hold It Against Me' [Jonas Åkerlund nói về ca khúc 'Hold It Against Me' 10 tuổi của Britney] (bằng tiếng Anh). Mononym Mythology. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 8 năm 2021. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2023.
  64. ^ Vena, Jocelyn (ngày 2 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Was 'Great' On Video Set, Jonas Akerlund Says” [Britney Spears rất 'tuyệt vời' trên trường quay video, Jonas Akerlund nói] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  65. ^ Dinh, James; Cantiello, Jim (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' Manager Breaks Down 'Hold It Against Me' Fight Scene” [Quản lý của Britney Spears chia sẻ cảnh đánh nhau trong 'Hold It Against Me'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  66. ^ a b “Britney Spears Added Her 'Flavor' To 'Hold It Against Me' Fight Scene” [Britney Spears đã thêm 'hương vị' của cô ấy vào cảnh chiến đấu 'Hold It Against Me'] (bằng tiếng Anh). MTV News. ngày 22 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  67. ^ Vena, Jocelyn (ngày 1 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Doesn't Channel Lady Gaga In 'Hold It Against Me' Video” [Britney Spears không bắt chước Lady Gaga vào trong video 'Hold It Against Me'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  68. ^ a b Vena, Jocelyn (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears 'Hold It Against Me' Fashion: Stylist Tells All!” [Thời trang 'Hold It Against Me' của Britney Spears: Nhà tạo mẫu nói lên tất cả!] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  69. ^ Roberts, Soraya (ngày 22 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears 'Hold It Against Me' video earns her $500,000; Katy Perry slams product placement” [Video 'Hold It Against Me' của Britney Spears kiếm được 500.000 đô la Mỹ; Katy Perry chỉ trích việc bố trí sản phẩm]. New York Daily News (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  70. ^ a b c d Montgomery, James (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Video: A Pop-Culture Cheat Sheet” [Video 'Hold It Against Me' của Britney Spears: Một tờ giấy phao thi về văn hóa đại chúng] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  71. ^ a b Vena, Jocelyn (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Video: The Key Scene” [Video 'Hold It Against Me' của Britney Spears: Cảnh quay quan trọng] (bằng tiếng Anh). MTV News. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  72. ^ a b “Britney Spears: Hold It Against Me (Music Video)” [Britney Spears: Hold It Against Me (Video âm nhạc)] (bằng tiếng Anh). FilmAffinity. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2023.
  73. ^ Vena, Jocelyn (ngày 9 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Hits The Stage In Latest 'Hold It Against Me' Teaser” [Britney Spears xuất hiện trên sân khấu trong teaser mới nhất của 'Hold It Against Me'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  74. ^ a b c d Masley, Ed (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney goes arty for 'Hold it Against Me' video” [Britney trở nên nghệ thuật với video 'Hold it Against Me']. The Arizona Republic (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  75. ^ a b Paskin, Willa (ngày 17 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Fights Herself in The 'Hold It Against Me' Video” [Britney Spears chiến đấu với chính mình trong video 'Hold It Against Me']. Vulture (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  76. ^ a b Grant, Drew (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Dissecting Britney Spears' 'Hold It Against Me' [Mổ xẻ 'Hold It Against Me' của Britney Spears]. Salon.com (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  77. ^ Valdez, Briana. “Top 10 Female Musicians Who Played Doubles in Their Music Videos” [Top 10 nữ nhạc sĩ đóng hai vai trong video âm nhạc của họ] (bằng tiếng Anh). WatchMojo. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 26 tháng 11 năm 2023.
  78. ^ Vena, Jocelyn (ngày 4 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Drops 'Hold It Against Me' Video Preview” [Britney Spears tung ra bản xem trước video "Hold It Against Me"] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  79. ^ a b Warner, Kara (ngày 7 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' Latest 'Hold It Against Me' Clip Teases Dance Scene” [Clip mới nhất của Britney Spears 'Hold It Against Me' giới thiệu cảnh nhảy] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  80. ^ Montgomery, James (ngày 9 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Clips Earn Her A Spot In Promotional History” [Clip "Hold It Against Me" của Britney Spears giúp cô có được vị trí trong lịch sử quảng cáo] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  81. ^ Vena, Jocelyn (ngày 8 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears To Premiere 'Hold It Against Me' Video February 17 On MTV” [Britney Spears sẽ ra mắt video 'Hold It Against Me' vào ngày 17 tháng 2 trên MTV] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  82. ^ Vena, Jocelyn (ngày 14 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Video Premiere To Be Followed By Live MTV.com Chat!” [Buổi ra mắt video của Britney Spears sẽ được trò chuyện trực tiếp trên MTV.com tường thuật lại!] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  83. ^ Montgomery, James (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Video Premieres” [Buổi ra mắt video 'Hold It Against Me' của Britney Spears] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  84. ^ Perpetua, Matthew (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' Goes Over the Top in Video For 'Hold It Against Me' [Britney Spears' vượt lên dẫn đầu về video cho 'Hold It Against Me']. Rolling Stone (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  85. ^ Parsley, Aaron (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Debuts Video for 'Hold It Against Me' [Britney Spears ra mắt video cho 'Hold It Against Me']. People (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  86. ^ Lamb, Bill (ngày 17 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Debuts Stunning 'Hold It Against Me' Video” [Britney Spears ra mắt video 'Hold It Against Me' tuyệt đẹp] (bằng tiếng Anh). About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  87. ^ Greenblatt, Leah (ngày 17 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' video: Watch it here” [Video "Hold It Against Me" của Britney Spears: Xem tại đây]. Entertainment Weekly (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  88. ^ Catarinella, Alex (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney's Beautiful Jonas Akerlund-directed Breakdown” [Jonas Akerlund đạo diễn điệu nhảy break tuyệt đẹp của Britney]. HuffPost (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  89. ^ Amter, Charlie (ngày 18 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears' 'Hold It Against Me' Video Criticized for Too Many Product Tie-Ins” [Video "Hold It Against Me" của Britney Spears bị chỉ trích vì có quá nhiều sản phẩm được nhét trong đó]. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  90. ^ “Britney Spears – Hold It Against Me on Vevo” [Britney Spears – Hold It Against Me trên Vevo] (bằng tiếng Anh). Vevo. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  91. ^ a b Vena, Jocelyn (ngày 25 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Electrifies Las Vegas With Nightclub Performance” [Britney Spears khuấy động Las Vegas với màn biểu diễn ở hộp đêm] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  92. ^ Vena, Jocelyn (ngày 27 tháng 2 năm 2011). “Britney Spears Steals Hearts At San Francisco Show” [Britney Spears đánh cắp trái tim tại buổi diễn ở San Francisco] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  93. ^ Roberts, Soraya (ngày 30 tháng 3 năm 2011). “Britney Spears on 'Jimmy Kimmel Live!': Does 'Jackass' Porta-Potty bungee stunt for Johnny Knoxville” [Britney Spears trên 'Jimmy Kimmel Live!': Có phải 'Jackass' Porta-Potty đóng thế bungee cho Johnny Knoxville không?]. New York Daily News (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  94. ^ Florino, Rick (ngày 25 tháng 6 năm 2011). “Live Review: Britney Spears, Nicki Minaj, Jessie and the Toy Boys 'The Femme Fatale Tour' — Anaheim, CA” [Đánh giá trực tiếp: Britney Spears, Nicki Minaj, Jessie và Toy Boys 'The Femme Fatale Tour' — Anaheim, CA] (bằng tiếng Anh). Artistdirect. Bản gốc lưu trữ ngày 29 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  95. ^ Matson, Andrew (ngày 29 tháng 6 năm 2011). “Concert review: Britney Spears and Nicki Minaj at the Tacoma Dome 06/29/11” [Đánh giá buổi hòa nhạc: Britney Spears và Nicki Minaj tại Tacoma Dome 29/06/11]. The Seattle Times (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 6 năm 2022. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  96. ^ Letkemann, Jessica (ngày 28 tháng 3 năm 2011). “Miguel Goes "Against" Britney Spears” [Miguel đi "hát lại" Britney Spears]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  97. ^ Faia, Amanda (ngày 21 tháng 2 năm 2011). “Taio Cruz faz cover de "Hold It Against Me", novo single da Britney Spears” [Taio Cruz hát lại 'Hold It Against Me', đĩa đơn mới của Britney Spears'] (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Portal POPLine. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  98. ^ Oldenburg, Ann (ngày 22 tháng 4 năm 2011). “Marines make Britney Spears video” [Thủy quân lục chiến làm video Britney Spears]. USA Today (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  99. ^ Corner, Lewis (ngày 1 tháng 8 năm 2011). “Selena Gomez performs Britney Spears medley: Video” [Selena Gomez biểu diễn liên khúc Britney Spears: Video] (bằng tiếng Anh). Digital Spy. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2023.
  100. ^ Berkshire, Geoff (ngày 20 tháng 9 năm 2012). 'Glee' recap: 'Britney 2.0' lets Heather Morris shine” [Tóm tắt 'Glee': 'Britney 2.0' giúp Heather Morris tỏa sáng]. Uproxx (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  101. ^ “Krewella's 'Feel Me' sample of Britney Spears's 'Hold It Against Me' [Mẫu 'Feel Me' của Krewella trong ca khúc 'Hold It Against Me' của Britney Spears] (bằng tiếng Anh). WhoSampled. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2023.
  102. ^ “Sabrepulse's 'Paradise' - Discover the Sample Source” ['Paradise' của Sabrepulse - Khám phá bài hát lấy âm thanh mẫu] (bằng tiếng Anh). WhoSampled. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 25 tháng 11 năm 2023.
  103. ^ Britney Spears (2011). Femme Fatale [Người đàn bà quyến rũ nguy hiểm] (Phần ghi chú [CD, Album]) (bằng tiếng Anh). Jive Records. ASIN B004LFO0FG. 8 86978 53322 7.
  104. ^ "Austriancharts.at – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Đức). Ö3 Austria Top 40. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  105. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop 50. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  106. ^ "Ultratop.be – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Pháp). Ultratop 50. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  107. ^ “Brasil Hot 100 Airplay” [Brasil Hot 100 Airplay]. Billboard Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 2: 96. tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  108. ^ “Brasil Hot Pop” [Brasil Hot Pop]. Billboard Brasil (bằng tiếng Bồ Đào Nha). 2: 97. tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  109. ^ "Britney Spears Chart History (Canadian Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  110. ^ "Britney Spears Chart History (Canada CHR/Top 40)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  111. ^ "Britney Spears Chart History (Canada Hot AC)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  112. ^ Britney Spears — Hold It Against Me (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  113. ^ “ARC 2011 Edition” [Phiên bản ARC 2011] (bằng tiếng Croatia). HRT. ngày 10 tháng 1 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  114. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiální. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 06. týden 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  115. ^ "Danishcharts.com – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Đan Mạch). Tracklisten. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  116. ^ “Billboard Hits of The World” [Billboard Hits of The World] (PDF). Billboard (bằng tiếng Anh). ngày 5 tháng 2 năm 2011. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  117. ^ "Britney Spears: Hold It Against Me" (bằng tiếng Phần Lan). Musiikkituottajat – IFPI Finland. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  118. ^ "Lescharts.com – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Pháp). Les classement single. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  119. ^ "Musicline.de – Britney Spears Single-Chartverfolgung" (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. PhonoNet GmbH. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  120. ^ “Britney Spears – Global Dance Songs” [Britney Spears – Global Dance Songs]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 11 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  121. ^ "Archívum – Slágerlisták – MAHASZ" (bằng tiếng Hungary). Rádiós Top 40 játszási lista. Magyar Hanglemezkiadók Szövetsége. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  122. ^ "The Irish Charts – Search Results – Hold It Against Me" (bằng tiếng Anh). Irish Singles Chart. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  123. ^ "Italiancharts.com – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Anh). Top Digital Download. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  124. ^ “Luxembourg Digital Song Sales – January 29, 2011” [Luxembourg Digital Song Sales – ngày 29 tháng 1 năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  125. ^ "Dutchcharts.nl – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Hà Lan). Single Top 100. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  126. ^ "Nederlandse Top 40 – Britney Spears" (bằng tiếng Hà Lan). Dutch Top 40. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  127. ^ "Norwegiancharts.com – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Anh). VG-lista. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  128. ^ “Listy bestsellerów, wyróżnienia :: Związek Producentów Audio-Video” [Danh sách bán chạy nhất, giải thưởng :: Hiệp hội các nhà sản xuất âm thanh-video] (bằng tiếng Ba Lan). Polish Airplay New. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  129. ^ “Portugal Digital Song Sales – January 29, 2011” [Bồ Đào Nha Digital Song Sales – ngày 29 tháng 1 năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 1 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  130. ^ "Bảng xếp hạng Nga Airplay vào ngày 28 tháng 2 năm 2011" (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  131. ^ "Official Scottish Singles Sales Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  132. ^ "ČNS IFPI" (bằng tiếng Séc). Hitparáda – Radio Top 100 Oficiálna. IFPI Cộng hòa Séc. Ghi chú: Chọn 04. týden 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  133. ^ “Circle Chart – Digital Chart – 2011 – Weeks 05” [Circle Chart – Xếp hạng nhạc số – 2011 – Tuần 05] (bằng tiếng Hàn). Bảng xếp hạng Circle. ngày 30 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2024.
  134. ^ “Circle Chart – Digital Chart – 2011 – Weeks 05 (Foreign)” [Circle Chart – Xếp hạng nhạc số – 2011 – Tuần 05 (Nước ngoài)] (bằng tiếng Hàn). Bảng xếp hạng Circle. ngày 23 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 2 năm 2024.
  135. ^ "Spanishcharts.com – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Anh). Canciones Top 50. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  136. ^ "Swisscharts.com – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Thụy Sĩ). Swiss Singles Chart. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  137. ^ "Swedishcharts.com – Britney Spears – Hold It Against Me" (bằng tiếng Anh). Singles Top 100. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  138. ^ "Bảng xếp hạng Ukraina Airplay vào ngày 28 tháng 2 năm 2011" (bằng tiếng Anh). Tophit. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  139. ^ "Official Singles Chart Top 100" (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  140. ^ "Britney Spears Chart History (Hot 100)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  141. ^ "Britney Spears Chart History (Adult Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  142. ^ "Britney Spears Chart History (Dance Club Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  143. ^ "Britney Spears Chart History (Dance Mix/Show Airplay)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  144. ^ "Britney Spears Chart History (Pop Songs)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  145. ^ "Britney Spears Chart History (Rhythmic)". Billboard (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  146. ^ “ARIA End of Year Singles Chart 2011” [Bảng xếp hạng đĩa đơn cuối năm của ARIA 2011] (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  147. ^ “Jaaroverzichten 2011” [Đánh giá thường niên 2011] (bằng tiếng Hà Lan). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  148. ^ “Rapports Annuels 2011” [Báo cáo hàng năm 2011] (bằng tiếng Pháp). Ultratop. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  149. ^ “Canadian Hot 100 – Year-End 2011” [Canadian Hot 100 – Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  150. ^ “CIS Year-End Radio Hits (2011)” [Các bản hit phát thanh cuối năm CIS (2011)] (bằng tiếng Nga). Tophit. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 7 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  151. ^ “ARC 2011 Edition” [Phiên bản ARC 2011] (bằng tiếng Croatia). HRT. ngày 10 tháng 1 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  152. ^ “Japan Hot 100: Year-End” [Japan Hot 100: Cuối năm]. Billboard Japan (bằng tiếng Nhật). 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 12 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  153. ^ “NRJ TOP 100 of 2011” (bằng tiếng Anh). NRJ Lebanon. 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 2 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  154. ^ “Russian Top Year-End Radio Hits (2011)” [Những bài hát hay nhất trên đài phát thanh cuối năm của Nga (2011)] (bằng tiếng Nga). Tophit. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 8 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  155. ^ “Annual South Korea International Chart” [Bảng xếp hạng quốc tế hàng năm của Hàn Quốc] (bằng tiếng Hàn). Gaon Chart. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  156. ^ “Årslista Singlar – År 2011” [Danh sách đĩa đơn năm – Năm 2011] (bằng tiếng Thụy Điển). Sverigetopplistan. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  157. ^ “Year End Chart 2011” [Bảng xếp hạng cuối năm 2011] (PDF) (bằng tiếng Anh). Official Charts Company. Lưu trữ (PDF) bản gốc ngày 11 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  158. ^ “Hot 100 Songs – Year-End 2011” [Hot 100 Songs – Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 5 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  159. ^ “Dance Club Songs – Year-End 2011” [Dance Club Songs – Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  160. ^ “Dance/Mix Show Songs – Year-End 2011” [Dance/Mix Show Songs – Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 2 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  161. ^ “Pop Songs – Year-End 2011” [Pop Songs – Cuối năm 2011]. Billboard (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 4 năm 2019. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  162. ^ “ARIA Charts – Accreditations – 2011 Singles” (PDF) (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Úc. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  163. ^ “Certificaciones” (bằng tiếng Tây Ban Nha). Asociación Mexicana de Productores de Fonogramas y Videogramas. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023. Nhập Britney Spears ở khúc dưới tiêu đề cột ARTISTA  và Hold It Against Me ở chỗ điền dưới cột tiêu đề TÍTULO'.
  164. ^ “Latest Gold / Platinum Singles” (bằng tiếng Anh). Radioscope. ngày 21 tháng 8 năm 2011. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  165. ^ “Gaon - 2011 Year-end International Download Chart” (bằng tiếng Hàn). Gaon Chart. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  166. ^ “Britney Spears - Hold It Against Me” (bằng tiếng Thụy Điển). Grammofon Leverantörernas Förening. Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 2 năm 2016. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  167. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Anh Quốc – Britney Spears – Hold It Against Me” (bằng tiếng Anh). British Phonographic Industry. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  168. ^ “Chứng nhận đĩa đơn Hoa Kỳ – Britney Spears – Hold It Against Me” (bằng tiếng Anh). Hiệp hội Công nghiệp Ghi âm Hoa Kỳ. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  169. ^ Vena, Jocelyn (ngày 11 tháng 1 năm 2011). “Britney Spears Thanks Fans For 'Hold It Against Me' Support” [Britney Spears cảm ơn người hâm mộ đã ủng hộ 'Hold It Against Me'] (bằng tiếng Anh). MTV News. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  170. ^ "Hold It Against Me" được Sony Music cho phát hành dưới dạng tải kỹ thuật số ở 16 quốc gia vào ngày 11 tháng 1 năm 2011:
  171. ^ “Britney Spears/Hold It Against Me - Músicas” [Britney Spears/Hold It Against Me - Âm nhạc] (bằng tiếng Bồ Đào Nha). Terra Sonora. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  172. ^ “Britney Spears/Hold It Against Me” [Britney Spears/Hold It Against Me] (bằng tiếng Ba Lan). Ovi. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 1 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  173. ^ “Available for Airplay” [Sẵn có để lên phát thanh]. FMQB (bằng tiếng Anh). Bản gốc lưu trữ ngày 15 tháng 4 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  174. ^ “HOLT EUCH 'HOLD IT AGAINST ME' [ĐÓN NHẬN 'HOLD IT AGAINST ME'] (bằng tiếng Đức). Britney.com. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 7 năm 2011. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  175. ^ “Hold It Against Me: Britney Spears” [Hold It Against Me: Britney Spears] (bằng tiếng Đức). Amazon (Đức). Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2020. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.
  176. ^ “Britney Spears / Hold It Against Me” [Britney Spears / Hold It Against Me] (bằng tiếng Anh). HMV. Bản gốc lưu trữ ngày 24 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 11 năm 2023.

Đọc thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Hold_It_Against_Me