Bài viết hoặc đoạn này cần người am hiểu về chủ đề này trợ giúp biên tập mở rộng hoặc cải thiện. Bạn có thể giúp cải thiện trang này nếu có thể. Xem trang thảo luận để biết thêm chi tiết.
Gia đình Phật tử Việt Nam (GĐPTVN) là một tổ chức giáo dụcthanh thiếu niên được thành lập từ những năm 1940, mang danh xưng chính thức là Gia đình Phật tử vào năm 1951, trên cơ sở các tổ chức giáo dục thanh thiếu niên theo tinh thần Phật giáo, do Bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám sáng lập. Vào đầu thế kỷ 21, Gia đình Phật tử Việt Nam có hơn 200.000 Huynh trưởng và Đoàn sinh tham gia sinh hoạt thường xuyên.
- Năm cánh trên tượng trưng cho năm hạnh của người Phật tử: Tinh tấn - Hỷ xả - Thanh tịnh - Trí tuệ - Từ bi.
Là huy hiệu của Gia Đình Phật Hóa Phổ (tiền thân Gia Đình Phật Tử), được công nhận ngày 8.12.Mậu Tý (6.1.1949) tại chùa Từ Đàm.
Xem bài chi tiết về Ý nghĩa huy hiệu Hoa Sen
Chào: Ấn Cát Tường (Ấn Tam Muội) chỉ áp dụng khi mặc đồng phục GĐPT (bàn tay mặt ngửa về phía trước, đưa ngang vai, cánh ngoài thẳng dọc với ngón cái giữ lấy ngón đeo nhẫn).
Châm ngôn Gia đình Phật tử: Bi- Trí - Dũng;
Khẩu hiệu Gia đình Phật tử: Tinh tấn.
Châm ngôn ngành Oanh vũ:Hòa-Tin-Vui
Khẩu hiệu ngành Oanh vũ:Ngoan
5 Điều học tập và rèn luyện ngành Thanh,Thiếu
*1/Phật tử quy y Phật, Pháp, Tăng và giữ giới đã phát nguyện
*2/Phật tử mở rộng lòng thương,tôn trọng sự sống
*3/Phật tử trau đồi trí tuệ tôn trọng sự thật
*4/Phật tử sống trong sạch từ thể chất đến tinh thần, từ lời nói đến việc làm
*5/Phật tử sống hỉ xả để vững tiến trên đường đạo
3 Điều học tập và rèn luyện ngành Oanh
*1/Em tưởng nhớ Phật
*2/Em kính mến cha mẹ và thuận thảo với anh chị em
*3/Em thương người và vật
Phật giáo Việt Nam trong thời Pháp thuộc đã có các tổ chức sau đây:
Tại Nam Kỳ, năm 1931 thành lập An Nam Nghiên cứu Phật học Hội và Lưỡng Xuyên Phật học Hội (về sau là Hội Phật học Nam Việt).
Tại Trung Kỳ, năm 1932 thành lập Hội An Nam Phật học.
Tại Bắc Kỳ, năm 1934 thành lập Hội Phật giáo Bắc Kỳ (Bắc Kỳ Phật giáo Tổng Hội - Nghị định số 4283 ngày 6 tháng 11 năm 1934 của nhà cầm quyền Pháp).
Đoàn thể Phật giáo đầu tiên hình thành cho giới trẻ là Đoàn Thanh niên Phật học Đức Dục, ra mắt năm 1940 của Hội An Nam Phật học do bác sĩ Tâm Minh – Lê Đình Thám hướng dẫn.[1] Sự việc này nằm trong công cuộc chấn hưng, canh tân Phật giáo Việt Nam, từ thập niên 1930 không chỉ về tổ chức quản trị, giới luật tu trì của Tăng sĩ mà còn có sự tham dự hộ pháp của Cư sĩ tại gia, đồng thời đưa đạo Phật đến với tuổi trẻ. Từ đấy bắt đầu xúc tiến hình thành Ban Đồng Ấu Phật giáo để quy tụ thanh, thiếu, đồng niên đến chùa học Phật Pháp, tụng kinh, nghe giảng giáo lý, vui hát, rước lễ dâng hoa... Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam, cũng như phôi thai hình thành Ban Đồng Ấu bắt đầu trỗi lên ở Huế và Hà Nội, rồi phát triển lan xuống các tỉnh.
Năm 1944 tại Huế các đơn vị Thanh niên Phật học, Hướng đạo Phật giáo và Đồng ấu Phật học họp tại đồi Quảng Tế nhân Lễ Phật đản, và cùng nhau thành lập Gia đình Phật Hóa Phổ. Đây là tiền thân của Gia đình Phật tử Việt Nam. Bốn đơn vị đầu tiên là Gia đình Tâm Linh, Gia đình Tâm Lạc, Gia đình Thanh Tịnh, và Gia đình Sum Đoàn. Gia đình Phật Hóa Phổ trông coi việc huấn luyện và giảng dạy trong khi Đoàn Thanh niên Phật học Đức dục lãnh phần sinh hoạt.[1] Tình hình chính trị làm gián đoạn bước tiến của đoàn thể này vì biến cố lịch sử và chiến tranh chống Pháp bùng nổ tại Nam Kỳ (1945), Bắc và Trung Kỳ (1946). Dù vậy những đơn vị khác dần xuất hiện ở cả ba miền.
Tháng Tư năm 1951 tại chùa Từ Đàm, Huế, nhân cuộc đại hội Gia đình Phật Hóa Phổ với sự hiện diện của các đại biểu từ Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Lâm Viên, Bình Thuận và Đồng Nai, ban tổ chức đồng tình đổi danh xưng Gia đình Phật Hóa Phổ thành Gia đình Phật tử Việt Nam[1] với sự canh tân về cơ cấu tổ chức điều hành và các hình thức sinh hoạt.
Tháng 5 năm 1951, cũng tại chùa Từ Đàm, Huế diễn ra Đại hội Phật giáo toàn quốc để thảo luận về tương lai Đạo pháp. Đại hội gồm trên 50 đại biểu Tăng già và Cư sĩ của 6 đoàn thể Phật giáo:
Giáo hội Tăng Già Bắc Việt,
Giáo hội Tăng Già Trung Việt,
Giáo hội Tăng Già Nam Việt,
Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt,
Hội Phật giáo Trung Việt,
Hội Phật học Nam Việt.
Sáu đoàn thể này đại diện cả ba miền đã quyết nghị thống nhất Phật giáo Việt Nam với danh hiệu Tổng hội Phật giáo Việt Nam và tôn thỉnh Đại lão Hòa thượng Thích Tịnh Khiết đảm vị ngôi hội chủ. Đại hội cũng đồng thời quyết nghị chấp thuận lấy bản nhạc "Phật giáo Việt Nam" (do nhạc sĩ Lê Cao Phan, Huynh trưởng Gia đình Phật tử Việt Nam sáng tác) làm Giáo ca chính thức của Phật giáo Việt Nam.
Sau cuộc vận động bình đẳng tôn giáo, tự do tín ngưỡng mùa Pháp nạn 1963 thành công. Năm 1964, Đại hội Phật giáo toàn quốc họp tại chùa Xá Lợi, Sài Gòn quyết nghị thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất dưới một hiến chương quy định giáo chế và cơ cấu tổ chức hành chánh, quản trị của Giáo hội. Trình hiến chương có ghi nhận vai trò cơ bản của Gia đình Phật tử Việt Nam.
Vào khoảng năm 1938 (?), tại Huế, Ban Quản trị Hội An Nam Phật học (gồm Lê Đình Thám, Nguyễn Khoa Toàn, Bửu Bác, Lê Thanh Cảnh, Trợ Dư, Tôn Thất Tùng) nhận thấy hội đủ điều kiện thuận lợi hình thành tổ chức "Ban Đồng Ấu Phật giáo" tại chùa Từ Đàm (Bửu Bác trực tiếp phụ trách). Bước đầu hình thành, các Đồng Ấu được chọn trong thành phần con em tín hữu thuộc giới trí thức, dòng dõi thế tộc, làm nòng cốt tổ chức. Hướng dẫn trong việc phát triển về sau tại các địa phương gồm có:
Các bà Công Huyền Tôn Nữ Hà và Hân (con ông Ngũ đợi Nguyễn Phúc Vĩnh Trân).
Các bà Mân chị, Mân em và ông Lê Đình Luân (con của Bác sĩ Lê Đình Thám).
Các ông Nguyễn Hữu Sanh, Nguyễn Hữu Huỳnh, Bửu Cang, Bửu Phê, Tôn Thất Ngoạn, Tôn Thất Túy, Tôn Thất Phú, Tráng Thông (con Kỳ Ngoại Hầu Cường Để), Lê Lừng, Lê Bối, Nguyễn Hữu Viện v.v...
Song hành với việc hình thành Ban Đồng Ấu, Ban Quản trị thành lập Đoàn Thanh Niên Phật học Đức Dục thuộc thành phần thanh niên trí thức đã vào đời với địa vị ngoài xã hội, hoặc đang là sinh viên cao đẳng, để nghe giảng luận và nghiên cứu Phật học. Ban Quản trị gồm có: Đinh Văn Nam (nay là Hòa thượng Thích Minh Châu), Võ Đình Cường, Phạm Quy, Lê Bối, Ngô Điền, Đinh Văn Vinh, Nguyễn Hữu Quán, Lê Đình Luân, Lê Lừng v.v...
Tổ chức "Đồng Ấu" lúc bấy giờ, cơ cấu điều hành, hình thức sinh hoạt chưa có hệ thống quy củ và phát triển có tính cách địa phương, nên ít có dịp sinh hoạt chung để được gặp gỡ, liên hệ, hiểu biết nhau, ngoài trừ Họp Bạn (1942?) tại đồi thông Quảng Tế ở Nam Giao (dịp này có sự thăm viếng của phái đoàn Ban Quản trị Hội An Nam Phật học do Nguyễn Khoa Toàn hướng dẫn), lần thứ hai tại chùa Túy Vân thuộc vùng cửa biển Tư Hiền và lần thứ ba là Trại Họp Bạn tại Lăng Cô (đều thuộc tỉnh Thừa Thiên - Huế).
Nội dung tại các dịp sinh hoạt là học kinh, tụng niệm, rước lễ, dâng hoa trong các ngày tại đại lễ Phật giáo, vui chơi, tập hát theo nhạc điệu cổ xưa (Kim tiền, Đăng đàn cung) và một số bài hát theo nhạc điệu Tây phương. Trang phục thì áo dài (đen cho nam, trắng cho nữ), quần dài trắng học trò, về sau (1943?) mới bắt đầu có đồng phục áo chemise màu nâu ngắn tay, túi có nắp, quần short đen dây lưng thun, mũ casque trắng, hoặc nón lá (nhất là khi đi trại), nhưng chưa đồng bộ. Các dịp đại lễ, hay hành lễ các ngày vía Phật mang thêm một băng vải màu vàng, từ vai tay trái qua trước ngực chạy xéo xuống tà áo bên phải với dòng chữ màu đỏ "Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật".
Hệ thống điều hành lúc bấy giờ gồm:
Ban Phụ trách Đồng Ấu Phật giáo trực thuộc Ban Quản trị Hội An Nam Phật học.
Tại địa phương là Ban Đồng Ấu, do Khuôn Hội Phật học cử một thành viên đứng tuổi, uy tín, năng động và có trình độ văn hóa liên lạc với ban phụ trách vùng (thành viên Ban Phụ trách Đồng Ấu) để tiếp nhận các cách thức thành lập Ban Đồng Ấu Khuôn Hội.
Ban Đồng Ấu phân chia thành các Đội, Chúng. Thời này việc chiêu mộ Đoàn Sinh rất khó khăn, phần lớn là phái nam, nữ rất hiếm, ngoại trừ tại Huế và vùng phụ cận (Kim Long, Long Thọ, Vĩ Dạ, An Cựu...).
Lúc sơ khai này đã lấy hoa sen 8 cánh làm biểu tượng chung cho từng Đội, Chúng của Ban Đồng Ấu với màu sắc khác nhau như:
Đây là mốc hình thành đầu tiên tiêu biểu cho truyền thống huy hiệu "Hoa Sen" và bài "Trầm Hương Đốt" (cúng dường chư Phật, do Bửu Bác sáng tác) ngày nay của Gia đình Phật tử Việt Nam.
Thời kỳ phục hồi với danh hiệu "Gia đình Phật Hóa Phổ", huy hiệu Hoa Sen được chuyển thành biểu tượng truyền thống chung của cả tổ chức thay vì trước đây chỉ hạn hẹp trong Đội, Chúng, và bản nhạc "Sen Trắng" được chọn làm Đoàn ca chính thức của Gia đình Phật tử Việt Nam.
(Tác giả huy hiệu hoa sen của Gia đình Phật tử là Lê Lừng, một Trưởng đã đóng góp nhiều công sức với Cư sỹ Lê Đình Thám trong phong trào sơ khai tổ chức và phát triển Gia đình Phật Hóa Phổ, huy hiệu hoa sen được thiết kế và sử dụng khoảng năm 1939-1940. Sau khi Gia đình Phật Hóa Phổ chính thức sử dụng, huy hiệu này cũng được Đoàn Thanh Niện Phật học Đức Dục dùng nhưng thêm mấy chữ viết tắt PHĐD phía trên hoa sen).
Ngoài việc học kinh nghĩa, nghi thức tụng niệm, sinh hoạt linh động về trí năng, kèm theo là làm việc thiện để huân tập cho các em thấu hiểu trong hành xử lòng từ bi, vị tha... Trong những dịp đi cắm trại, ngoài những sinh hoạt thường lệ, còn có mục làm việc thiện, như truyền bá vệ sinh, quét dọn những khu ô uế, rác rưởi, khơi mương rãnh, quy tụ các em nhỏ địa phương cùng vui hát, dự lửa trại... Thời kỳ này, các hình thức phô diễn như phù hiệu, cấp hiệu hay danh xưng các cấp điều khiển chưa có đặt ra. Vị đứng đầu Ban Đồng Ấu gọi là "Anh phụ trách", nếu luống tuổi thì "Bác phụ trách", chưa có danh xưng "Huynh Trưởng, Gia Trưởng"...
Năm 1945 mọi sinh hoạt đều gián đoạn vì cuộc chiến kháng Pháp bùng nổ.
Tại Bắc Kỳ, Hội Phật giáo Bắc Kỳ đã được thành lập (1934) với trụ sở tại chùa Quán Sứ (Hà Nội), do Cư sĩ Nguyễn Năng Quốc làm Hội Trưởng và Hòa thượng Thanh Hanh là Thiền Gia Pháp Chủ.
Tháng 5 năm 1945 danh hiệu được cải đổi là Hội Việt Nam Phật giáo do Hòa thượng Tuệ Tạng (Tổ Cồn) làm Hội Trưởng, trong khi các thầy Tố Liên và Trí Hải được ủy nhiệm điều hành thường trực công việc.
Từ khi thành lập, ngoài việc kết hợp sơn môn, tu đính giới luật Tăng sự, thiết lập đạo tràng, Phật học đường tại các tổ đình để đào tạo Tăng chúng, đồng thời các Thượng tọa cùng một số Cư sĩ trong Ban Quản trị đã thực hiện việc quy tụ thanh, thiếu, đồng niên, con em Hội Viên để hình thành Ban Đồng Ấu, hàng tuần chiều thứ năm và sáng chủ nhật đến chùa học kinh nghĩa; rước lễ, dâng hoa các ngày đại lễ; tụng niệm; sinh hoạt vui chơi; tập hát các bài hát theo điệu nhạc truyền thống dân tộc do Cư sĩ Thiều Chữu (tác giả cuốn Hán-Việt tự điển) hướng dẫn. Đó là thời kỳ sơ khai hình thành Ban Đồng Ấu Phật giáo tại Bắc Kỳ.
Năm 1946 cuộc chiến kháng Pháp bùng nổ, Hội cũng như tổ chức Đồng Ấu gián đoạn sinh hoạt.
Thời kỳ phục hồi và cải cách (1948-1953)[sửa | sửa mã nguồn]
Năm 1948 sau những ngày tản cư và hồi cư, do khuyến khích của các Giáo phẩm Tăng-già tại các quốc tự và các Cư sĩ thành viên Ban Quản trị Hội An Nam Phật học tại Huế bắt đầu việc phục hồi tổ chức Đồng Ấu.
Từ đó đã có cuộc gặp gỡ đầu tiên (1948 - 1949?) của một số anh chị đầy đạo tâm, từng suy tư về giáo dục trẻ, đã từng tham dự từ khởi đầu hình thành tổ chức Ban Đồng Ấu cũng như Đoàn Thanh Niên Phật học Đức Dục tại biệt thự số 11 đường Nguyễn Hoàng (thời trước là Rue Paul Bert). Những cuộc gặp gỡ bàn luận về sau tại chùa Từ Đàm do Võ Đình Cường đảm trách cùng với Lê Cao Phan, Hoàng Thị Kim Cúc, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy, Cao Chánh Hựu v.v...
Sau thời kỳ gặp gỡ hội bàn và hoạch định các hình thức sinh hoạt, phục hồi tổ chức với đường hướng cải cách nội dung cũng như hình thức, đồng thời lấy danh hiệu là "Gia đình Phật Hóa Phổ" thay danh xưng "Đồng Ấu Phật giáo" của thời kỳ sơ khai trước đây, dưới sự bảo trợ, cố vấn giáo lý của các thầy:
Thích Minh Châu (đã viên tịch tại Thiền Viện Vạn Hạnh).
Thích Thiên Ân (đã viên tịch tại Hoa Kỳ).
Thích Đức Tâm, Thích Chân Trí.
Thích Trí Không v.v...
Từ đây đã thành lập hai đơn vị đầu tiên là Gia đình Phật Hóa Phổ Hướng Thiện do Phan Cảnh Trí làm Phổ Trưởng và Gia đình Phật Hóa Phổ Gia Thiện do Nguyễn Văn Phiên làm Phổ Trưởng, và tổ chức bắt đầu sự cải cách cơ cấu điều hành, chương trình tu học, các hình thức sinh hoạt như:
Đồng phục, phù hiệu, cấp hiệu.
Chia hai ngành nam, nữ.
Chia đơn vị Đội, Chúng, Đoàn, Gia đình.
Tổ chức trại huấn luyện cho Đoàn viên và Huynh trưởng.
Sau đó, tổ chức Gia đình Phật Hóa Phổ ngày càng phát triển sâu rộng khắp các chùa và Khuôn Hội tại kinh đô Huế cho tới nông thôn, rồi Đà Nẵng, Đà Lạt, Quảng Trị, Quảng Bình, Nha Trang, Phan Thiết; thiết lập các trại huấn luyện ngành các cấp và Huynh trưởng; bầu cử Ban Hướng dẫn cấp địa phương và Trung Việt.
Năm 1949, Ban Hướng dẫn Gia đình Phật Hóa Phổ Thừa Thiên - Huế được thành lập với thành phần:
Trưởng ban: Lê Cao Phan.
Các Thành viên: Tráng Thông, Võ Đình Cường, Phan Xuân Sanh, Lê Văn Dũng v.v...
Các năm tiếp theo, tổ chức Gia đình Phật Hóa Phổ tại Trung Việt đã phát triển khắp các tỉnh (như nêu trên), từ thành thị đến huyện, xã với đội ngũ Huynh trưởng được đào tạo qua các trại huấn luyện.
Trước sự phát triển rộng khắp ấy, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo chung, nên Gia đình Phật Hóa Phổ đã triệu tập cuộc họp tại trụ sở Hội Phật học Trung Việt (đường Nguyễn Hoàng) bầu Ban Hướng dẫn Gia đình Phật Hóa Phổ Trung Việt (1951) gồm:
Trưởng ban: Võ Đình Cường.
Các Thành viên: Lê Cao Phan, Lê Mộng Đào, Phan Cảnh Tuân, Nguyễn Xuân Quyền, Hoàng thị Kim Cúc v.v...
Ngày 6 tháng 5 năm 1951 Đại hội thống nhất Phật giáo 3 miền được tổ chức tại chùa Từ Đàm, Huế, lấy danh hiệu "Tổng Hội Phật giáo Việt Nam". Trong dịp này, khóa huấn luyện Huynh trưởng đầu tiên do Ban Hướng dẫn Gia đình Phật Hóa Phổ Thừa Thiên - Huế được ủy nhiệm đảm trách tổ chức, với sự tham dự của Huynh trưởng ba miền lấy tên là "Trại Kim Cang" và thành phần tham dự trại gồm:
Ban Trại Trưởng: Võ Đình Cường, Lê Cao Phan, Lê Văn Dũng, Phan Cảnh Tuân, Văn Đình Hy v.v...
Thành phần Trại Sinh:
Bắc Việt: Lê Vinh, Đặng Văn Khuê, Trần Thanh Hiệp v.v...
Nam Việt: Nguyễn Hữu Huỳnh.
Trung Việt: Đa số...
Đến năm 1954 Gia đình Phật tử tại Thừa Thiên - Huế và số lớn các tỉnh ở Trung Việt và Cao Nguyên đã tiến triển khả quan, với cơ cấu tổ chức quy củ, các kỹ năng sinh hoạt và tu học ngày càng hoàn thiện cũng như một lực lượng Huynh trưởng đông đảo, đầy đạo tâm và khả năng.
Từ đó, trở nên khuôn mẫu trong việc canh tân và phát triển, hướng đến thống nhất toàn diện tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam tại miền Nam Việt Nam sau ngày đất nước bị qua phân hai miền Nam, Bắc.
Do có sự quan tâm đặc biệt trong giáo dục đối với tuổi thiếu sinh, Thượng tọa kết tập các em mồ côi với học sinh Khuông Việt cùng các Đồng Ấu thành đoàn ngũ lấy danh xưng là Gia đình Phật Hóa Phổ, ủy nhiệm Đặng Văn Khuê xây dựng, trông nom Gia đình Phật Hóa Phổ sơ khởi này.
Vào khoảng năm 1949 - 1950 Gia đình Phật Hóa Phổ lớn mạnh, đã phân chia thành Đoàn, Đội, Chúng và chia thành hai ngành nam, nữ do các Huynh trưởng phụ trách, đồng thời thành lập đơn vị Gia đình Phật Hóa Phổ Minh Tâm là đơn vị đầu tiên tại chùa Quán Sứ dưới sự bảo trợ, cố vấn giáo lý của Đại đức Thích Thanh Kiểm (cố Hòa thượng) và Đại đức Thích Tâm Giác (cố Hòa thượng), với thành phần Huynh trưởng gồm có:
Tháng 5 năm 1951 Đại hội Phật giáo ba miền họp tại chùa Từ Đàm, Huế, đã quyết nghị thống nhất Phật giáo với danh hiệu Tổng Hội Phật giáo Việt Nam.
Song hành với dịp đại hội này, trại huấn luyệnKim Cang được tổ chức nhân các Huynh Trưởng cấp tỉnh trở lên của ba miền về dự Đại hội thống nhất Phật giáo, đã hội thảo tiến tới thống nhất hình thức tổ chức, sinh hoạt đoàn thể Phật tử (Gia đình Phật Hóa Phổ). Phái đoàn Huynh trưởng Bắc Việt được cử về dự gồm có các Trưởng: Tâm Thiết - Trần Thái Hồ, (Lê Vinh), Thông Phương - Đặng Văn Khuê và Chân Quang - Trần Thanh Hiệp.
Qua các cuộc hội thảo và trại huấn luyện Kim Cang, danh xưng Gia đình Phật Hóa Phổ được thống nhất cải đổi thành danh xưng Gia đình Phật tử Việt Nam. Sau đó nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển, canh tân và hướng dẫn, Hội Việt Nam Phật giáo thành lập Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Bắc Việt để điều hành các đơn vị của Gia đình Phật tử tại Bắc Việt với các thành phần như sau:
Tháng 1năm 1953 phái đoàn đại biểu Gia đình Phật tử Bắc Việt gồm có Nguyễn Văn Nhã, Lê Văn Lãm, Chị Ni, Tuệ Mai, Diệu Minh và Ty được cử vào dự Đại hội Huynh trưởng Gia đình Phật tử toàn quốc họp tại chùa Từ Đàm, hội thảo các dự án thành lập nội quy, chương trình tu học và sinh hoạt thống nhất.
Đầu năm 1954, Trại họp bạnVô Ưu được tổ chức tại đền Voi Phục, (Láng), quy tụ tất cả các Gia đình Phật tử các tỉnh cùng về dự, và do trưởng Nguyễn Minh Hiền làm Trại Trưởng. Đây là trại họp bạn sau cùng đánh dấu sự phát triển và lớn mạnh của tổ chức Gia đình Phật tử tại Bắc Việt và sau đó nhận lấy sự qua phân hai miền Nam, Bắc bởi Hiệp định Genève.
Dưới chính thể Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc, tổ chức Gia đình Phật tử hoàn toàn giải thể.
Hoàn cảnh Nam Việt từ 1947 trở về trước khác với Bắc và Trung Việt, về sau mặc dầu đã có xu hướng và ý định tiến đến hình thành tổ chức Gia đình Phật tử, song không đủ nhân sự chuyên trách, cũng như thông hiểu hình thức và nội dung tổ chức.
Đến năm 1951, cơ duyên thuận lợi cho công cuộc thống nhấtPhật giáo Việt Nam sau gần 3-4 thập kỷ bị phân ly do chính sách thống trị và ngược đãi của thực dân Pháp. Đại hội thống nhất Phật giáo ba miền được tổ chức tại chùa Từ Đàm gồm có 6 tập đoàn Tăng già và Cư sĩ:
Pháp HuệNguyễn Hữu Huỳnh về dự Đại hội thống nhất Phật giáo Việt Nam với tư cách thành viên phái đoàn Hội Phật học Nam Việt. Song Ban Trưởng Trại huấn luyện Kim Cang dò biết vị Đại biểu trẻ nhất phái đoàn Nam Việt có phong độ năng động, linh hoạt, hầu như đã từng trải về sinh hoạt thanh niên, và chính là một đồng hương Huế, đang là một Huynh TrưởngHướng Đạo tại Sài Gòn, nên đã tìm cách vận động, thúc đẩy tham gia trại Kim Cang, để tiến tới hình thành tổ chức Gia đình Phật tử tại Nam Việt. (tại khóa tu họcAnoma của Gia đình Phật tử Vĩnh Nghiêm1993, TrưởngHồng LiênPhan Cảnh Tuân, Giảng viên, cho biết hồi đó Trưởng phải chạy từng bộ đồng phục lam cho Trưởng Huỳnh để dự khóa huấn luyện).
Vốn sẵn dòng máu truyền thống Phật giáo và đã đến với Ban Đồng Ấu thuộc Hội An Nam Phật học từ ngày đầu thành lập (1938) và vào sinh sống ở Sài Gòn hạ niên 1940, Trưởng Pháp Huệ chấp nhận dự trại huấn luyện.[2]
Đại hội thống nhất Phật giáo bế mạc, và khóa huấn luyện Kim Cang kết thúc, Trưởng Huỳnh trở về Nam Việt với nỗi lòng hân hoan: Sự thống nhất Phật giáo và tổ chức Gia đình Phật tử kết chặt "tình Lam con Phật" nhằm canh tân và phát triển Gia đình Phật tử khắp ba miền.
Cảnh trạng ấy đã đáp ứng được nỗi đam mê, ước vọng của Trưởng Huỳnh trong việc giáo dục thanh, thiếu, đồng niênhướng thiện, theo tinh thần đạo Phật. Từ đó với bao kiến thức sẵn có, cùng với những tài liệu thu nhập được ở khóa huấn luyện Kim Cang, Trưởng Huỳnh đã dành hết thời gian và trí tuệ, quyết tâm thành lập bằng được tổ chức Gia đình Phật tử tại Nam Việt.
Trước khi tiến hành thành lập, Trưởng Pháp Huệ cảm thấy trong Ban Quản trị Hội Phật học có Bác sĩNguyễn Văn Thọ, Phó Hội Trưởng, là người có đủ điều kiện về cơ sở vật chất (nhà cửa, phương tiện) và nhân lực (con cháu đông đúc) làm nhân, tác động hình thành tổ chức Gia đình Phật tử tại Sài Gòn để dần dần lan rộng đến các tỉnh. Trưởng liền tìm đến tiếp xúc với Bác sĩ Thọ trình bày mục đích, ý nghĩa tổ chức Gia đình Phật tử đối với đạo, và giáo dục thanh, thiếu, đồng niên hướng thiện theo tinh thần đạo Phật; đồng thời trình bày đầy đủ về hình ảnh sinh động, hòa vui cũng như chương trình tu học và sinh hoạt Gia đình Phật tử, được Bác sĩ Thọ thông cảm và tâm đắc, khuyến khích đôn đốc Trưởng Huỳnh: "Đạo Hữu nên mau tiến hành, Ban Quản trị Hội và tôi luôn ủng hộ". Bác sĩ liền giao biệt thự số 31 Nguyễn Thông (công xá được cấp theo công vụ) và con cháu trong gia quyến (gồm 28 nhân lực) làm khởi điểm hình thành Gia đình Phật tử tại Sài Gòn.
Từ đây một mình Huynh Trưởng Pháp HuệNguyễn Hữu Huỳnh đảm trách mọi vai trò, vừa là người Huynh Trưởng hướng dẫn, vừa là một Đoàn Sinh. Từ tổ chức thành đội ngũ, giảng dạy Phật pháp; tập hát; các trò chơi; các chuyên môn sinh hoạt thanh niên: gút, morse, dấu đi đường; vạch chương trình sinh hoạt định kỳ; cho đến việc chiêu mộ thêm đoàn sinh...
Trong vòng thời gian gần ba tháng, các em Đoàn Sinh đã tiếp nhận cách thức sinh hoạt, thuộc các bài hát: "Phật giáo Việt Nam", "Trầm hương đốt", "Dây thân ái", "Dòng Anoma"... và đã thuộc kinh cùng nghi thức hành lễ sám hối, Trưởng liền tổ chức lễ ra mắt thành lập Gia đình Phật tử Chánh Tâm tại mặt tiền sân thượng tư gia Bác sĩ Nguyễn Văn Thọ. Lễ ra mắt đơn vị đầu tiên này trước sự chứng giám của chư Tăng, và Ban Quản trị Hội Phật học gồm có:
+ Thầy Đạt Từ, Thầy Quảng Liên (nay là Hòa thượng viện chủ Tu Viện Quảng Đức, Thủ Đức) + Toàn thể thành viên Ban Quản trị Hội Phật học Nam Việt.
Chứng kiến lễ ra mắt, Thầy Quảng Liên đã hân hoan khen ngợi và khuyến khích mau chóng cho phát triển tổ chức Gia đình Phật tử, để hướng dẫn tuổi trẻ đến với chánh pháp. Từ đó tổ chức Gia đình Phật Tử (họ Chánh) lần lượt hình thành tại Sài Gòn và mau chóng lan tới các tỉnh ở Nam Việt.
Vào khoảng năm 1952 - 1953 được thêm Trưởng Nguyễn Văn Thục (tự giới thiệu nguyên là Gia đình Phật tử Chơn Trí - An Lăng, Huế) và tiếp theo đó có Trưởng Tống Hồ Cầm ở Đà Lạt xuống Sài Gòn (Trưởng Huỳnh cho biết năm 1951, Trưởng là thành viên phái đoàn Phật học Nam Việt về dự Đại hội Thống Nhất Phật giáo ba miền tại chùa Từ Đàm, Huế và được quen biết Trưởng Tống Hồ Cầm (phái đoàn Trung Việt) và Đạo Hữu Viên Quang (phái đoàn Bắc Việt), mà cả hai cùng Trưởng Huỳnh đều là thành viên ban Thư ký Đoàn của Đại hội, cũng như đã làm quen tại khóa huấn luyện Huynh trưởng đầu tiên của Trại Kim Cang, cộng tác phát triển (Gia đình Phật tử thuộc Giáo hội Tăng Già Nam Việt tại chùa Ấn Quang) xây dựng Gia đình Phật tử Nam Việt, thuộc Hội Phật học Nam Việt.
"... Năm 1950 sau cơn ly tán tập hợp lại, tái lập tổ chức Gia đình Phật Hóa Phổ dưới sự hướng dẫn của chú Minh Châu, anh Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, Phan Cảnh Tuân, chị Hoàng Thị Kim Cúc..." "... như một đóa sen vươn cánh nở từ khắp đất Thần Kinh, Ban Hướng dẫn Thừa Thiên được thành lập. Lúc bấy giờ ở Sài Gòn anh Tống Hồ Cầm, Nguyễn Văn Thục tổ chức Gia đình Phật Tử trực thuộc Hội Phật Học Nam Việt lúc này còn rất nghèo ở chùa Phước Hòa"...[3]
Trại Kim Cang 1951, chỉ có Đại biểu 'Gia đình Phật Hóa Phổ Trung và Bắc Việt, Nam Việt chưa có Gia đình Phật Hóa Phổ nên anh Nguyễn Hữu Huỳnh, Đại biểu phái đoàn Hội Phật Học Nam Việt được mời dự trại huấn luyện Huynh Trưởng như một Đại biểu Gia đình Phật Hóa Phổ Nam Việt dự trại huấn luyện như đã nói ở phần trên.
Trong khi tổ chức Gia đình Phật Tử Nam Việt đang trên đà phát triển rộng khắp tại một số tỉnh, (tại Sài Gòn - Gia Định đã có các đơn vị Gia đình Chánh Tín, Chánh Thọ, Chánh Đạt, Chánh Minh nhưng chưa hội đủ cơ duyên thành lập Ban Hướng dẫn), Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh và sau đó được sự hợp tác (1952 - 1959) của Trưởng Tống Hồ Cầm và Trưởng Nguyễn Văn Thục (cho biết nguyên ở Gia đình Phật Tử Chơn Trí - An Lăng, Huế) chuẩn bị để phát triển xây dựng Gia đình Phật Tử Nam Việt, thì cục diện đất nước qua phân thành hai miền Bắc, Nam bởi Hiệp định Genève.
Đến năm 1960, Đại hội Huynh Trưởng các Gia đình họ Chánh thuộc Hội Phật Học Nam Việt họp hội nghị tại chùa Xá Lợi, thành lập Ban Hướng dẫn Gia đình Phật Tử Nam Việt, do Trưởng Tống Hồ Cầm làm Trưởng ban.
Lâu nay biên giả có thắc mắc về khoảng thời gian 1960 trở đi thấy vắng danh Trưởng Huỳnh, mà khi mưu sinh tại Sài Gòn lui tới Bạn Đoàn đầy tính tài tử tại chùa Xá Lợi, chùa Giác Minh, chùa Phổ Quang thường được nghe nói về Trưởng Huỳnh với Gia đình Phật Tử tại chùa Xá Lợi, và với Đoàn Huynh Trưởng A Dục cùng với Trưởng Phan Cảnh Tuân.
Cũng như tại Đại hội Huynh trưởng Gia đình Phật tử năm 1964 tại trường Nữ Trung học Gia Long, (qua giới thiệu của Ban Tổ chức) mới được biết Trưởng Pháp HuệNguyễn Hữu Huỳnh là Cựu Huynh trưởng. Tuy vậy chưa bao giờ may mắn đối diện, vì bản tính vốn thầm lặng, khiêm tốn trong giao tiếp.
Năm 1994 hân hạnh được Gia đình Phật tử Xá Lợi (Cố Gia Trưởng Mã Văn Tố tự Long) mời dự buổi trình diễn văn nghệ, lần đầu tiên được trực diện Trưởng Huỳnh. Về sau tại lễ ra mắt Gia đình Phật tử Phổ Hiền (tại khu Bảy Hiền) lại được hội ngộ Trưởng Huỳnh, nhân đấy tôi có đề cập thắc mắc như trên thì được Trưởng Huỳnh tỏ lời cảm ơn, với nụ cười "tình Lam" mà không giải đáp, nên cứ đánh dấu hỏi???"...[4]
Thời kỳ cải cách theo hướng thống nhất (1953-1964)[sửa | sửa mã nguồn]
Qua Đại hội tháng 5/1951, cùng với Trại huấn luyện Kim Cang đầu tiên là cơ duyên mở đầu tinh thần thống nhất, và canh tân cơ cấu tổ chức điều hành, chương trình tu học và các hình thức sinh hoạt Gia đình Phật tử Việt Nam, thuộc Tổng Hội Phật giáo Việt Nam. Do đó đã dẫn đến Đại hội Gia đình Phật tử toàn quốc diễn ra vào tháng 1/1953 tại Huế, gồm có 63 Đại biểu Huynh trưởng chính thức của 3 miền.
Kết quả Đại hội đã thành lập Ban Hướng dẫn Trung ương Gia đình Phật tử Việt Nam, và quyết nghị chấp thuận một Nội quy và chương trình tu học, cùng hình thức sinh hoạt thống nhất toàn quốc.
Sau Đại hội 1953, Gia đình Phật tử ba miền đã tỏ rõ sự trưởng thành và quy củ từ cơ cấu tổ chức đến điều hành, tu học, sinh hoạt, các hình thức phô diễn, đến việc đào tạo hàng ngũ Huynh trưởng qua các khóa huấn luyện, làm nền tảng cho sự xây dựng và phát triển trong tương lai, nhằm tiến tới sự thống nhất toàn diện.
Qua năm 1954, Hiệp định Génève phân chia đất nước thành hai miền Nam, Bắc.
Đến năm 1955 Tổ chức Gia đình Phật tử tại Nam Việt đã hình thành và phát triển khả quan tại Đô Thành Sài Gòn - Gia Định và lan rộng tới các tỉnh Biên Hòa, Cần Thơ, Mỹ Tho, (Định Tường), Vĩnh Long (Long Xuyên)...
Hiệp định Genève chia đôi đất nước thành hai miền Nam, Bắc. Năm 1955, đồng bào miền Bắc thuộc mọi thành phần nói chung, trong đó có đồng bào Phật giáo và Huynh trưởng, Đoàn Sinh Gia đình Phật tử nói riêng, di cư vào định cư tại Sài Gòn - Gia Định và một số tỉnh thuộc Nam Việt và Trung Việt.
Từ bấy giờ tổ chức Gia đình Phật tử tại Nam Việt có thêm hai hệ thống của hai Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Bắc Việt tại Miền Nam:
+ Một thuộc Giáo hội Tăng Già Bắc Việt đặt trụ sở tại chùa Giác Minh, đường Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ).
+ Thứ hai, thuộc Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt đặt trụ sở tại chùa Phước Hòa, đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu).
Trong cảnh đất nước chia cắt Bắc - Nam tạo ra những phức tạp, xáo trộn không tiên liệu được. Bởi vậy, ở thời gian giao thời lúc đầu không tránh khỏi những ngộ nhận và trở ngại trong hoạt động. Vì sự điều hành hoạt động và quản trị khác nhau, do thống thuộc mỗi tập đoàn Phật giáo và không được sự chỉ đạo chung bởi một Ban Hướng dẫn toàn quốc theo tinh thần Đại hội 1953.
Tuy vậy, vẫn có sự quan hệ "tình Lam, con Phật", và hình thức tổ chức, tu học vẫn theo Nội quy Gia đình Phật tử Việt Nam.
Nhằm tạo hòa khí trước những ngộ nhận, dao động của giao thời và kết liên "tình Đạo, tình Lam", Trưởng Huỳnh đã liên hệ với các Gia đình Phật tử họ Giác (thuộc Giáo hội Tăng Giá Bắc Việt) và Gia đình Phật tử họ Minh (thuộc Việt Nam Phật giáo Bắc Việt) cùng Trưởng Hồng Liên - Phan Cảnh Tuân (Gia đình Phật tử Trung Việt) thành lập Đoàn Huynh trưởng A Dục. Mục đích của Đoàn nhằm trao đổi kinh nghiệm, bồi bổ kiến thức trong vai trò Huynh trưởng phụng sự Đạo pháp, và hòa đồng hoạt động xây dựng Gia đình Phật tử Việt Nam, phù hợp với hoàn cảnh đương thời.
Năm 1960 nhằm kết liên tình lam, Đoàn Huynh trưởng A Dục do các Trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh, Phan Cảnh Tuân và Nguyễn Văn Thục hướng dẫn đã thăm Đà Lạt & giao lưu với Gia đình Phật tử địa phương. Nhờ sự quan hệ thắm thiết "tình Lam, con Phật", dầu sự thống nhất khác nhau song cùng một lý tưởng phụng sự Đạo pháp và xây dựng tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam. Trong khoảng cuối năm 1960, Gia đình Phật tử họ "Chánh" thuộc Hội Phật học Nam Việt tổ chức hội nghị tại chùa Xá Lợi, khởi đầu thành lập Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Nam Việt, do Trưởng Tống Hồ Cầm đảm trách Trưởng ban Hướng dẫn. Từ đây, tại Nam Việt có ba Ban Hướng dẫn:
1. Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Nam Việt.
2. Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử thuộc Giáo hội Tăng Già Bắc Việt tại miền Nam.
3. Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử thuộc Hội Việt Nam Phật giáo Bắc Việt tại miền Nam.
Cuối năm 1960, sau cuộc họp sơ bộ tại Nha Trang Thượng tọa Thích Thiện Minh, Ủy viên Thanh Niên Phật tử Tổng Hội Phật giáo Việt Nam, vào Sài Gòn họp với Đại đức Ủy viên Thanh Niên và một số Huynh trưởng Gia đình Phật tử Bắc Việt tại chùa Giác Minh. Các phiên họp này nhằm mục đích tìm phương thức đi đến thống nhất sự chỉ đạo các Gia đình Phật tử.
Nhờ sự lãnh đạo sáng suốt, đầy tế nhị của Thượng tọa Ủy viên Thanh Niên Phật tử, cùng sự kết hợp tình lam qua Đoàn Huynh trưởng A Dục bấy giờ, là một phần nhân tố duyên lành, dẫn đến Đại hội Huynh trưởng toàn quốc họp tại chùa Xá Lợi từ ngày 26 đến ngày 28-12-1961 bầu cử Ban Hướng dẫn toàn quốc (như tinh thần Đại hội 1953) gồm đủ thành phần đại diện Bắc - Trung - Nam như:
+ Trưởng ban: Thượng tọa Thích Thiện Hoa.
+ Phó Ban ngành Nam: Tống Hồ Cầm.
+ Phó Ban ngành Nữ: Hoàng Thị Kim Cúc.
+ Tổng Thư ký: Trần Quang Thuận.
+ Phó Tổng Thư ký: Cao Chánh Hựu.
+ Thủ Quỹ kiêm Đại diện Gia đình Phật tử Bắc Việt: Đạo Hữu Nguyễn Đức Lợi.
Kể từ đây trở đi, tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam thể hiện tinh thần đoàn kết vững chắc với một ý chí xây dựng và củng cố hàng ngũ, phát huy đức tính Bi, Trí, Dũng phụng sự Đạo pháp. Do đó, đã trở thành một lực lượng kiên trung với trí tuệ trong sáng, góp phần vào công cuộc đòi hỏi tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo, theo Giáo lệnh của đức Hội Chủ Tổng Hội Phật giáo Việt Nam và của Ủy ban Liên Phái Bảo vệ Phật giáo năm 1963.
Năm 1964, sau cuộc vận động tự do tín ngưỡng, bình đẳng tôn giáo của mùa Pháp Nạn năm 1963, Đại hội Phật giáo họp tại chùa Xá Lợi, gồm sáu tập đoàn Tăng-già, cư sĩ Bắc Trung Nam và Giáo hội Phật giáo Nam Tông (Nguyên thủy), đồng tâm quyết nghị thành lập Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất với bản văn Hiến Chương ấn định Giáo chế, cơ cấu tổ chức điều hành Giáo hội gồm 2 viện: Viện Tăng Thống và Viện Hóa Đạo (bao gồm các Tổng Vụ và các Vụ); đồng thời ấn định Gia đình Phật tử thuộc Tổng Vụ Thanh Niên, trực nhiệm Gia đình Phật tử Vụ của Viện Hóa Đạo.
Chiếu Hiến Chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất tháng 6/1964, Gia đình Phật tử đã tiến hành Đại hội Huynh trưởng toàn quốc tại trường trung học Gia Long (Sài Gòn), bầu cử Ban Hướng dẫn Trung ương Gia đình Phật tử Việt Nam, quyết nghị Nội quy, Quy chế Huynh trưởng và các chương trình tu học, sinh hoạt của Gia đình Phật tử Việt Nam thống nhất.
Từ đây, tổ chức Gia đình Phật tử Việt Nam từ cấp Ban Hướng dẫn Trung ương đến Ban Hướng dẫn cấp Tỉnh với cấp trung gian là Đại diện Ban Hướng dẫn Trung ương tại cấp Miền, được phân định thành bảy miền:
Vạn Hạnh (Bắc Trung Phần).
Liễu Quán (Nam Trung Phần).
Khuông Việt (Cao Nguyên Trung Phần)
Khánh Hòa (Đông Nam Phần)
Quảng Đức (Thủ Đô Sàigòn)
Vĩnh Nghiêm (Phật tử Bắc Việt tại miền Nam).
Khánh Anh (Hậu Giang Nam Phần).
Huệ Quang (Tiền Giang Nam Phần).
Cấp miền có (Ban) Đại diện Ban Hướng dẫn Trung ương tại Miền. Cấp tỉnh có Ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Tỉnh. Cấp Quận có (Ban) Đại diện Ban Hướng dẫn tỉnh tại Quận.
Sau năm 1964, Gia đình Phật tử Việt Nam đã rất cường thịnh về mọi mặt, tổ chức, điều hành cùng chương trình tu học theo đúng mục đích: Học đạo và giáo dục thanh, thiếu, đồng niên theo tinh thần luân lý đạo Phật do các bậc Tôn túc Tăng-già và chư vị Cư sĩ uyên bác như (Bác sĩ Tâm Minh - Lê Đình Thám) tiền bối sáng lập. Cho nên dù trong cảnh huống nào Gia đình Phật tử vẫn giữ đúng truyền thống thuần túy đạo Phật với hạnh nguyện tự giác, giác tha để phụng sự Đạo pháp và kết liên "tình Lam con Phật".
Trong những năm của thập niên 60, tổ chức GĐPT phát triển rộng khắp và sinh hoạt rầm rộ ở khắp mọi nơi trên đất nước.
Niềm ao ước và mong mỏi của mọi Đoàn sinh và Huynh trưởng là làm thế nào để xây dựng cho được một Trại trường của GĐPTVN.
Và đến Đại hội Huynh trưởng toàn quốc 1964 tại Sài Gòn, vấn đề được đặt ra và quyết định xây dựng Trại trường GĐPTVN tại Đà Lạt.
Đại Hội đã uỷ nhiệm cho Ban Hướng dẫn GĐPT Đà Lạt – Tuyên Đức 3 việc:
Lập thủ tục xin chính quyền địa phương cấp cho một lô đất để xây dựng “Trại Trường Gia Đình Phật Tử Việt Nam”, nơi đào tạo cán bộ (Huynh trưởng) cho GĐPTVN.
Thiết kế hoạ đồ Đài Lục Hòa và Trại Trường.
Đứng ra trông nom, xây dựng Đài Lục Hòa khi được xét duyệt chấp thuận.
Sau khi dự Đại Hội về, Ban Hướng dẫn Đà Lạt – Tuyên Đức xúc tiến ngay những việc nghiên cứu thực địa, tìm địa điểm thích hợp, vẽ họa đồ… khi đã chọn được một địa điểm thích hợp là một khu đồi thông cạnh Hồ Than Thở, thành phố Đà Lạt.
BHD GĐPT Đà Lạt – Tuyên Đức (được sự hỗ trợ của Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo Đà Lạt – Tuyên Đức) làm văn thư gửi chính quyền xin cấp lô đất rộng 17,6Ha cạnh hồ Than Thở – Đà Lạt để xây cất Đài Lục Hòa và Trại Trường GĐPTVN.
– Tháng 03/1967, nhận được quyết định số 30/HC3/QĐ/67, ký ngày 04/03/1967 của chính quyền địa phương chấp thuận cho GĐPT thuộc Tỉnh hội Phật giáo Đà Lạt – Tuyên Đức được xử dụng lô đất nói trên.
– BHD GĐPT Đà Lạt – Tuyên Đức thực hiện các bảng tole nhỏ, dài, có huy hiệu Hoa Sen Trắng và dòng chữ “Trại Trường Gia Đình Phật Tử Việt Nam” để đóng vào các cây thông xung quanh khu đất Trại Trường GĐPT cạnh hồ Than Thở – Đà Lạt.
– Tháng 01/1969, BHD GĐPT Đà Lạt – Tuyên Đức nhận được giấy phép số 05/HC3/B, ký ngày 15/01/1969 của chính quyền địa phương cho phép xây dựng Đài Lục Hòa và Trại Trường GĐPTVN theo họa đồ đã đệ trình.
– Lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng Đài Lục Hòa và Trại Trường GĐPTVN được tổ chức trọng thể vào ngày 19/01/1969 dưới sự chứng minh của Thượng tọa Thích Đạo Quang, Chánh Đại diện GHPGVNTN miền Khuông Việt và Đại đức Thích Minh Tuệ, Chánh Đại diện GHPGVNTN tỉnh Đà Lạt – Tuyên Đức cùng với Ban Trị sự Tỉnh hội, các Chi, Khuôn hội; BHD Trung Ương GĐPTVN và đại diện BHD các tỉnh, thị trên toàn quốc và đông đảo quan khách. Các đơn vị GĐPT trên toàn tỉnh Tuyên Đức – Đà Lạt – Lâm Đồng về cắm trại rất đông.
Trong buổi lễ, anh Võ Đình Cường – Trưởng BHD Trung Ương GĐPTVN đã ngỏ lời cảm ơn chính quyền địa phương và các cơ quan sở tại. Trong bài diễn văn vào dịp này, anh nói:
“Gia Đình Phật Tử chúng tôi đã có được khu đất rộng rãi, đẹp đẽ để làm Trại Trường đào tạo cán bộ cho Gia Đình Phật Tử trên toàn quốc. Trong một ngày rất gần đây, nơi đây Trại Trường sẽ được dựng lên trong khung cảnh hùng vĩ và không kém phần thơ mộng… Từng lớp người thanh niên nam nữ Phật Tử sẽ được đào luyện để trở thành Huynh Trưởng trong cái lò huấn luyện này. Đà Lạt sẽ là nơi mà tất cả cán bộ nòng cốt của phong trào Gia Đình Phật Tử trên toàn quốc đều phải đi qua và chắc chắn sẽ ghi khắc trong lòng nhiều kỷ niệm quý báu, êm đềm của một thị xã thơ mộng, hiền hòa, có khí hậu mát mẻ, trong lành nhất và cũng có nhiều danh lam, thắng cảnh nhất trên bán đảo Đông Dương này…”.
Sau lễ đặt viên đá đầu tiên, BHD GĐPT Đà Lạt – Tuyên Đức xúc tiến những dự án xây cất. Chính anh Nguyên Tín Nguyễn Châu, Trưởng BHD GĐPT Đà Lạt – Tuyên Đức là người đã thiết kế và trực tiếp quản lý công trình xây dựng Đài Lục Hòa.
Đài Lục Hòa hình trụ lục giác, cao 11m khắc 6 câu “Hòa Kỉnh” vào 6 mặt trụ: Thân hòa đồng trú; Khẩu hòa vô tranh; Ý hòa đồng duyệt; Kiến hòa đồng giải; Giới hòa đồng tu; Lợi hòa đồng quân, tượng trưng cho tinh thần Lục hòa Cộng trụ của tổ chức GĐPTVN. Đỉnh trụ tôn trí thánh tượng Bồ TátQuán Thế Âm do hai Huynh trưởng Tâm Kiểm Bạch Hoa Mai và Tâm Phát Võ Văn Phác tôn tạo cùng BHD GĐPT Đà Nẵng thỉnh vào. Trụ đài đặt trên một tòa sen 12 cánh nở, nằm trên một bệ tròn dày 5 tấc, đường kính 12 mét, xung quanh khắc tên GĐPT tất cả các tỉnh từ Quảng Trị đến Cà Mau có sinh hoạt GĐPT và đóng góp tịnh tài xây dựng đài.
Các thời điểm đáng nhớ:
Lễ đặt viên đá đầu tiên: 19/01/1969.
Lễ khởi công xây cất: 28/03/1970.
Lễ khánh thành: 25/12/1973.
Với tổng kinh phí 1.228.792 đồng (vào thời điểm đó số tiền này rất lớn) do công sức của các Ban Bảo trợ, các BHD tỉnh, thị trên toàn quốc cùng với quý Đạo hữu Phật tử hảo tâm; Huynh trưởng và Đoàn sinh các đơn vị GĐPT sở tại đóng góp tích cực trong suốt 4 năm trời mới xây dựng nên Đài Lục Hòa Trại Trường GĐPTVN.
Nơi đây, Trại Huấn luyện Huynh trưởng cao nhất của GĐPTVN - Trại Vạn Hạnh I đã được tổ chức sau ngày khánh thành 1 năm.
- Năm 1981, Đại hội các tổ chức Phật giáo được tổ chức tại chùa Quán Sứ, Hà Nội. Dẫn đến việc thống nhất Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Lúc này, Gia Đình Phật Tử sinh hoạt trong lòng GHPGVNTN (mà nhiều thành viên của GHPGVNTN đã trở thành thành viên GHPGVN). Do không thống nhất nội bộ nên một số lãnh đạo Phật giáo đã tách ra khỏi GHPGVN phục hoạt GHPGVNTN. Cũng theo đó mà GĐPTVN cũng có sự phân hóa riêng biệt về mặt tổ chức nhưng cùng tinh thần, mục đích như một tổ chức thống nhất nên hoàn cảnh đó còn nhiều khó khăn, nhân sự phân tán nên sinh hoạt Gia đình Phật tử tại một số nơi có phần khựng lại nếu không muốn nói là bế tắc. Trước tình hình đó, những người có trách nhiệm với Gia đình Phật tử đã ngồi lại với nhau để "Tìm cách cho Gia đình Phật tử được sinh hoạt đều đặn và có hiệu quả, phù hợp với tình hình mới của đất nước và của Giáo hội Phật giáo Việt Nam". Sau cuộc họp lịch sử ngày 19/10/1997 tại Thiền viện Vạn Hạnh (TP.HCM), một bản thông báo mang theo 5 chữ ký của: Hòa thượng Thích Minh Châu và 4 Huynh Trưởng cấp Dũng: anh Võ Đình Cường, anh Tống Hồ Cầm, anh Nguyễn Xuân Quyền và anh Nguyễn Châu được gửi đến toàn thể Huynh Trưởng và Đoàn sinh Gia đình Phật tử Việt Nam.
Nội dung bản Thông báo có 5 điểm (nguyên văn):
"1. Sinh hoạt Gia đình Phật tử nhằm đào luyện Thanh Thiếu Đồng niên thành những Phật tử chân chính, góp phần xây dựng xã hội. Sinh hoạt này, trước đây đã đạt được những thành quả tốt đẹp nay cần phải được tiếp tục phát huy.
2. Từ ngày được thành lập, Gia đình Phật tử luôn luôn sinh hoạt trong khuôn khổ pháp lý của một tổ chức Phật giáo được Nhà nước chấp thuận, như Hội An Nam Phật học, Hội Phật học Nam Việt, Tổng hội Phật giáo Việt Nam, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. Nay sinh hoạt của Gia đình Phật tử cần được thực hiện trong khuôn khổ pháp lý của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
3. Một số ít điều trong Nội quy và Quy chế Huynh Trưởng của Gia đình Phật tử cần được tu chỉnh cho phù hợp với Hiến chương của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
4. Huynh Trưởng và đoàn sinh Gia đình Phật tử cần chung sức chung lòng cùng nhau đẩy mạnh sinh hoạt Gia đình Phật tử để đóng góp vào sự nghiệp chung của Phật giáo và đất nước.
5. Gia đình Phật tử cần tranh thủ để được sự quan tâm giúp đỡ cụ thể của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong các sinh hoạt."
Cũng trong năm này, Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ IV diễn ra tại Hà Nội, Gia đình Phật tử được chính thức công nhận, ghi vào Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam (Chương V Điều 19, nay là Điều 21).
- Năm 1998, Giáo hội Phật giáo Việt Nam thành lập các Ban Hướng dẫn Phật tử từ Trung ương đến các Tỉnh, Thành. Ngành Cư sĩ Phật tử do Chư Tăng trực tiếp lãnh đạo, ngành Gia đình Phật tử do Huynh Trưởng điều hành theo chủ trương đường lối của Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
- Tại Tổ đình Từ Đàm Huế, ngôi chùa có dấu ấn lịch sử Gia đình Phật tử (1951, 1963), vào những ngày cuối tháng 7 năm 2001 đã diễn ra 3 sự kiện lịch sử trọng đại: Lễ kỷ niệm 50 năm GĐPTVN (1951 - 2001), Hội nghị Huynh Trưởng cấp Tấn để tu chỉnh Nội quy GĐPT cho phù hợp với Hiến chương Giáo hội Phật giáo Việt Nam và luật pháp Nhà nước, khai mạc Trại huấn luyện Huynh Trưởng cấp ba Vạn Hạnh II (2001 - 2005).
- Năm 2003 theo đề nghị của hai Huynh Trưởng cấp Dũng Võ Đình Cường, Tống Hồ Cầm, sáng lập viên GĐPTVN, cố vấn Phân ban Hướng dẫn GĐPT Trung ương, Ban Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN thành lập Hội đồng xét xếp cấp Dũng cho 5 Huynh Trưởng: Nguyễn Thắng Nhu, Nguyễn Đức Châu, Lê Bá Chí, Trần Hạp và Nguyễn Văn Quýnh. Lễ trao cấp hiệu được thực hiện tại Hội nghị kỳ 2 khóa V của Trung ương Giáo hội (dưới sự chứng minh của Đại Tăng 2 Hội đồng Chứng minh, Hội đồng Trị sự và 46 tỉnh thành trong cả nước, đánh dấu một bước trưởng thành của GĐPT trong lòng GHPGVN).
- Năm 2005, Trại huấn luyện Huynh Trưởng cấp III Vạn Hạnh II khai khóa năm 2001 đã tổ chức trọng thể. Lễ bế mạc tại trại trường chùa Trúc Lâm Huế, dưới sự chứng minh của Chư Tôn đức Ban Thường trực Hội đồng Trị sự GHPGVN, Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế và các tỉnh thành. 268 Huynh Trưởng cấp Tín đã được cấp Giấy Chứng nhận hoàn thành chương trình bậc Lực - Trại Vạn Hạnh II. Đây là trại huấn luyện Huynh Trưởng cấp cao nhất của GĐPT (đào tạo Huynh Trưởng hướng dẫn cấp tỉnh thành) được tổ chức lần đầu tiên vào năm 1973.
- Năm 2006, Hội nghị Đại biểu Huynh Trưởng GĐPTVN họp tại thành phố Hồ Chí Minh để tu chỉnh nội dung chương trình tu học của GĐPT, khai khóa học Huynh Trưởng bậc Lực - Trại Vạn Hạnh III (2006 - 2010) và trao huy hiệu cấp Tấn cho 94 Huynh Trưởng đủ điều kiện.
- Năm 2007, Trại họp bạn ngành Thiếu toàn quốc sau 47 năm chờ đợi đã được tổ chức quy mô hoành tráng tại chùa Linh Ứng - Bãi Bụt - Sơn Trà - Đà Nẵng.
- Đại hội Phật giáo toàn quốc lần thứ VI, nhiệm kỳ 2007 - 2012 tại Hà Nội công nhận Trưởng Phân ban Hướng dẫn Gia đình Phật tử Trung ương là Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN, một lần nữa xác định vị trí của GĐPT trong tổ chức GHPGVN.
- Ngày 1/8/2011 lễ khai mạc Hội nghị Đại biểu Huynh trưởng GĐPT VN lần thứ XI được long trọng diễn ra tại Tổ đình Từ Đàm, nơi đây xưng danh Gia đình Phật tử Việt Nam đã đi vào lịch sử cách đây 60 năm, có 416 Huynh trưởng thuộc 26 tỉnh thành trên cả nước về tham dự. Hội nghị làm việc trong 3 ngày và kết thúc ngày 4/8/2011. Hội nghị đã tập trung trí tuệ nghiên cứu, cải tiến, đổi mới phương thức sinh hoạt học tập của GĐPT, tu chỉnh và bổ sung Nội quy, Quy chế Huynh trưởng GĐPT.
- Từ ngày 22 đến 25/11/2018, Phân ban GĐPT Trung ương tổ chức Hội nghị đại biểu Huynh trưởng GĐPT toàn quốc lần thứ XII tại chùa Pháp Lâm (TP.Đà Nẵng).
Mục đích Gia đình Phật tử Việt Nam: "Đào luyện Thanh – Thiếu – Đồng niên thành Phật tử chân chính; Góp phần xây dựng xã hội theo tinh thần Phật giáo."[5]
Mục đích Phân ban Gia đình Phật tử Việt Nam: "Đào luyện Thanh – Thiếu – Đồng niên tin Phật, thành Phật tử chân chính; Góp phần phụng sự đạo pháp và xây dựng xã hội."[6]
Các kỳ Đại hội Huynh trưởng Toàn quốc GĐPT Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Các kỳ Đại hội Huynh trưởng Toàn quốc ở Việt Nam, riêng Phân Ban GĐPT của GHPGVN thì không tổ chức Đại hội mà tổ chức Hội nghị Đại biểu Huynh trưởng, Hội nghị này tương đương Đại hội Huynh trưởng GĐPT các cấp:
– Tu chỉnh và san định thống nhất chương trình tu học GĐPTVN.
– Thống nhất và xác lập đường hướng hoạt động.
– Công cử Trưởng BHD Trung Ương: Huynh Trưởng Nguyên Hùng – Võ Đình Cường. Đến tháng 3/1969, Huynh Trưởng Nguyên Y Lương Hoàng Chuẩn đảm nhiệm Quyền Trưởng Ban khi Huynh Trưởng Nguyên Hùng Võ Đình Cường bị chính quyền bắt giam.[7]
* Lần đầu tiên cùng tổ chức song hành Đại Hội Ban Bảo Trợ GĐPTVN toàn quốc.
– Tổng duyệt tài liệu tu học GĐPTVN.
– Cụ thể hóa chương trình sinh hoạt.
– Công cử Trưởng BHD Trung Ương: Huynh Trưởng Nguyên Hùng Võ Đình Cường (Đại Hội quyết nghị lưu nhiệm toàn BHD nhiệm kỳ cũ và công cử bổ sung các chức vụ. Huynh Trưởng Nguyên Hùng Võ Đình Cường sau khi thoát vòng lao lý của nhà đương cuộc, đã tái nhậm chức Trưởng Ban ngày 28/12/1970).
– Công cử Trưởng Ban Bảo Trợ Trung Ương nhiệm kỳ đầu tiên: Đạo Hữu Thái Tường.[7]
Sau sự kiện 30 tháng 4, nhiều người Việt vượt biên rời khỏi Việt Nam, nhiều Huynh trưởng và Đoàn sinh GĐPTVN cũng đi đến các Quốc gia khác và thành lập các Đơn vị, BHD GĐPTVN tại các Quốc gia và châu lục như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Canada, Úc, Âu châu. Năm 1993, tại San Jose, California, Hoa Kỳ, Ban Điều hợp GĐPTVN tại Hải ngoại được thành lập. Tháng 4/2000, Quyết nghị của Hội nghị Huynh trưởng GĐPTVN tại Hải ngoại về việc hình thành tổ chức GĐPTVN trên Thế giới được làm tại Hannover, Đức quốc trong Đại hội GĐPTVN tại Hải ngoại lần II.[14]
Năm 2004, tại Bồ Đề Đạo Tràng, Ấn Độ, BHD GĐPTVN tại Hải ngoại kết hợp với BHD Trung ương GĐPT Việt Nam tổ chức Đại hội GĐPTVN trên Thế giới, công cử Huynh trưởng cấp Dũng Nguyên Tín - Nguyễn Châu vào chức vụ Trưởng Ban Hướng dẫn GĐPTVN trên Thế giới.
Thành lập BHD Trung ương GĐPTVN trên Thế giới.[15] Phái đoàn GĐPT Việt Nam bị chặn lại ở Phi trườngTân Sơn Nhất.[16] – Công cử Trưởng BHD: Huynh Trưởng Nguyên Tín Nguyễn Châu.
– Công cử Trưởng BHD: Huynh Trưởng Nguyên Tín Nguyễn Châu.
– Đón nhận Xá lợi Phật của Đức Quyền Tăng thống Thái Lan Chuang Varapuñño thông qua Bác sỹ Pornchai Pinyapong, Chủ tịch Hội Liên hữu Thanh niên Phật giáo Thế giới[20].
Phụ tá Tổng vụ Trưởng Tổng vụ Thanh niên GHPGVNTN.
Giữ chức Quyền Trưởng Ban khi Huynh trưởng Võ Đình Cường bị nhà cầm quyền câu lưu (1969 - 1970) và sau khi Huynh trưởng Võ Đình Cường từ chức năm 1975.
Được công cử tại các kỳ Đại hội IX[21], X[31] và XI.
Lê Công Cầu
Nguyên Chánh
cấp Dũng
2008 - nay
Năm 2008, Hòa thượng Thích Quảng Độ, Viện Trưởng Viện Hóa đạo ký quyết định thành lập BHD Trung Ương trực thuộc GHPGVNTN, chỉ định HTr Lê Công Cầu làm Vụ Trưởng GĐPT Vụ, kiêm Trưởng BHD Trung Ương GĐPT Việt Nam.
Năm 2013, Cư sỹ Lê Công Cầu được Đệ ngũ Tăng thống, HT Thích Quảng Độ bổ nhiệm làm Tổng Thư ký Viện Hóa đạo.
Ngày 19/12/2013, sau khi Giáo chỉ số 10 được Hòa thượng Thích Quảng Độ ban hành, hàng loạt Tăng sỹ GHPGVNTN từ chức và thành lập Tăng đoàn GHPGVNTN, suy cử Hòa thượng Thích Thiện Hạnh làm Thượng thủ Tăng đoàn.
Tháng 6/2014, Tăng đoàn GHPGVNTN thành lập BHD Trung Ương GĐPTVN theo Quyết định số 02/QĐ/TUVTN/HĐĐH ngày 28/06/2014 của Tổng Ủy Viên Thanh Niên[32].
Năm 2012, Hội đồng Tăng già Chứng minh GĐPTVN do HT Thích Đức Chơn làm Thượng thủ được suy cử[33]. Hội đồng Tăng già Chứng minh GĐPTVN sau đó đổi tên thành Hội đồng Tăng già Bản thệ.
Họ tên
Pháp danh
Cấp bậc
Sinh, mất
thời gian tại nhiệm
Ghi chú
Trưởng Ban Hướng dẫn Trung Ương GĐPT Việt Nam
Nguyễn Châu
Nguyên Tín
cấp Dũng
1995 - nay
Chủ tịch Hội đồng Huynh Trưởng cấp Dũng.
Trưởng BHD GĐPTVN Trên Thế GIới.
Được công cử tại các kỳ Đại hội IX[21], X[31] và XI[10].
BHD Trung Ương tuyên bố thuộc GHPGVNTN nhưng không được thừa nhận[21].
Năm 1998, BHD Nam Nữ Phật tử đổi tên thành BHD Phật tử, trong BHD Phật tử các cấp có 02 Phân Ban là Phân Ban Hướng dẫn Cư sỹ Phật tử và Phân Ban Hướng dẫn GĐPT. Đứng đầu là Trưởng PBHD, gọi tắt là Trưởng Phân Ban. BHD Phật tử sau có thêm Phân Ban Phật tử Dân tộc và Phân Ban Thanh Thiếu nhi Phật tử. Trưởng Phân Ban GĐPT Trung Ương, Tỉnh thành kiêm Phó Trưởng Ban Hướng dẫn Phật tử Trung Ương, Tỉnh thành.
Ngày 17/07/2013, Hội đồng Trị sự GHPGVN quyết định ban hành bản Nội quy Phân Ban GĐPT và Nội quy Huynh trưởng GĐPT được tu chỉnh tại Hội nghị Đại biểu Huynh Trưởng Toàn quốc XI theo Quyết định số 257/2013/QĐ.HĐTS, áp dụng từ ngày 1/08/2013[34]. Theo đó, Phân Ban Hướng dẫn GĐPT các cấp được đổi tên lại thành BHD Phân Ban GĐPT các cấp[6].
Họ tên
Pháp danh
Cấp bậc
Sinh, mất
thời gian tại nhiệm
Ghi chú
Trưởng Phân Ban Hướng dẫn GĐPT Trung Ương
Nguyễn Thắng Nhu
Thiện Điều
cấp Tấn
(1998 - 2003)
cấp Dũng (2003)
1998 - 2013
Ủy viên Hội đồng Trị sự GHPGVN nhiệm kỳ VI[28] và VII[35].
Ủy viên Ban Trị sự Tỉnh hội Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế.
Được công cử làm Trưởng BHD Trung ương Lâm thời GĐPTVN Trên Thế Giới.
Được bầu làm Trưởng BHD GĐPTVN Trên Thế Giới tại các kỳ Đại hội I, II, III[21] và IV.
Chủ tịch Hội đồng Điều hành GĐPTVN Trên Thế Giới
Nguyễn Đóa
Nguyên Kim
cấp Dũng
2004 - nay
Ngày 28-11-2004, Hòa thượng Thích Tâm Châu, Thượng thủ Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Trên Thế Giới ký ban hành Giáo chỉ số 241/VP/TT thành lập Hội Đồng Điều Hành Lâm Thời Gia Đình Phật Tử Việt Nam Trên Thế Giới[21].
Gia đình Phật tử chia Đoàn sinh thành 3 độ tuổi khác nhau (Nam, Nữ sinh hoạt riêng biệt làm 2 nhóm khác nhau): Ngành Đồng (Oanh Vũ), ngành Thiếu và ngành Thanh. - Ngành Đồng chia làm 4 bậc học: Mở mắt, Cánh mềm, Chân cứng và Tung bay. - Ngành Thiếu chia làm 4 bậc học: Hướng thiện, Sơ thiện, Trung thiện và Chánh thiện. - Ngành Thanh chia làm 2 bậc học: Hoà, Trực; ở GĐPT của GHPGVN là Hòa, Minh, Kiến, Trực[42].
Cuối mỗi bậc học, Đoàn sinh sẽ tham gia Trại Vượt bậc để lên bậc học mới.
Ngoài ra, Đoàn sinh GĐPT còn được tham gia các Trại Huấn luyện Đội - Chúng Trưởng, Phó và Đầu, Thứ Đàn là
Thanh Nam, Thiếu Nam: Trại Anoma, đào tạo Đội Trưởng, Đội Phó.
Thanh Nữ, Thiếu Nữ: Trại Ni Liên, đào tạo Chúng Trưởng, Chúng Phó.
Đồng Nam, Đồng Nữ: Trại Tuyết Sơn, đào tạo Đầu Đàn, Thứ Đàn.
Ở Phân Ban GĐPT thì có Trại Tu-Đạt-Đa cho Thanh Nam, đào tạo Đội Trưởng, Đội Phó và Trại Tỳ-Xá-Khư cho Thanh Nữ, đào tạo Chúng Trưởng, Chúng Phó.
Khi Đoàn Sinh GĐPT phát nguyện làm Huynh trưởng sẽ tham gia các bậc tu học dài hạn dành cho Huynh trưởng và trải qua các trại Huấn luyện kết khóa tương đương. Các Trại Huấn luyện được lấy tên theo những nơi, nhân vật Phật giáo tiêu biểu:
Bậc Kiên (1 năm) và Trại Huấn luyện Huynh trưởng Sơ cấp Lộc Uyển, đào tạo Đoàn Phó.
Bậc Trì (2 năm) và Trại Huấn luyện Huynh trưởng Cấp I A Dục, đào tạo Đoàn Trưởng.
Bậc Định (3 năm) và Trại Huấn luyện Huynh trưởng Cấp II Huyền Trang, đào tạo Liên Đoàn Trưởng.
Bậc Lực (5 năm hoặc 4 năm với Phân Ban GĐPT) và Trại Huấn luyện Huynh trưởng Cấp III Vạn Hạnh, đào tạo Ban viên Ban Hướng dẫn.
Chia ra các bậc học theo từng độ tuổi: - Đối với độ tuổi ngành Đồng [gọi là Oanh Vũ] (từ 7 đến 12 tuổi). - Đối với độ tuổi ngành Thiếu (từ 13 đến 17 tuổi). - Đối với độ tuổi ngành Thanh (từ 18 tuổi trở lên). - Đối với Huynh trưởng thì có các bậc tu học trường kỳ: Kiên, Trì, Định, Lực.
Môn dạy những kỹ năng giúp cho Đoàn Sinh có thể thích nghi với mọi điều kiện sống như: băng rừng, qua sông, leo núi... đồng thời kết hợp với những kỹ năng trong đời sống hằng ngày. Hoạt động thanh niên chỉ là bộ môn hỗ trợ trong quá trình tu học Phật pháp của Gia đình Phật tử. Chuyên môn của bộ môn này gồm các kỹ năng như:
Truyền tin: (Gồm kỹ năng truyền/nhận Morse, Semaphore, và các tín hiệu khác).
^phần này dựa theo cuốn "Thử tìm hiểu nguồn gốc Gia đình Phật Tử Việt Nam" của Trưởng Pháp Huệ Nguyễn Hữu Huỳnh
^Qua tập sách Người Áo Lam, Sứ Mệnh Gia đình Phật Tử của Lữ Hồ - Nguyễn Minh Hiền, Ủy viên Tu Thư Ban Hướng dẫn Trung ương nhiệm kỳ I, niên khóa 1964 - 1966
^Qua tập sách Người Áo Lam, sứ mệnh Gia đình Phật Tử của Lữ Hồ - Nguyễn Minh Hiền, Ủy viên Tu Thư Ban Hướng dẫn Trung ương nhiệm kỳ I, niên khóa 1964 - 1966
Tài liệu Huấn luyện Huynh trưởng, Trường đào tạo Huynh trưởng A-DẬT-ĐA biên soạn 1964.
Đặc san Ái Hữu Vĩnh Nghiêm, 1995.
Thử Tìm hiểu Nguồn Gốc Gia đình Phật tử Việt Nam, Trưởng Pháp Huệ - Nguyễn Hữu Huỳnh 1995 (cùng thư trao đổi của Anh Lê Lừng với Trưởng Nguyễn Hữu Huỳnh).
Người Áo Lam - Sứ Mệnh Gia đình Phật tử, Trưởng Lữ Hồ - Nguyễn Minh Hiền, Ủy viên Tu Thư Ban Hướng dẫn Trung ương nhiệm kỳ 1964-1966.
Gia đình Phật tử - Cương Yếu và Tổ chức, Cố Huynh trưởng Như Tâm - Nguyễn Khắc Từ, Ủy viên Nghiên Huấn Ban Hướng dẫn Trung ương.
ANOMA - Tài liệu khóa tu học Huynh trưởng Gia đình Phật tử Tổ Đình Vĩnh Nghiêm 1993.
Những ghi nhớ của biên giả từ Đồng Ấu đến trở thành Huynh Trưởng cấp Tấn và đảm nhiệm Trưởng ban Hướng dẫn Gia đình Phật Tử Miền Vĩnh Nghiêm, Ủy viên Thiếu Nam Ban Hướng dẫn Gia đình Phật Tử Trung ương nhiệm kỳ 1966 đến 1975.
Phật giáo Việt Nam.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất.
Chương trình tu học bậc Hướng Thiện - Gia đình Phật tử Việt Nam.