Wiki - KEONHACAI COPA

Emily Blunt

Emily Blunt
Blunt năm 2019
SinhEmily Olivia Laura Blunt
23 tháng 2, 1983 (41 tuổi)
London, Anh quốc
Tư cách công dân
  • Vương Quốc Anh
  • Hoa Kỳ
Nghề nghiệpDiễn viên
Năm hoạt động2001–hiện tại
Phối ngẫu
John Krasinski (cưới 2010)
Con cái2
Người thân
Giải thưởngToàn bộ danh sách

Emily Olivia Laura Blunt (sinh ngày 23 tháng Hai năm 1983) là một nữ diễn viên người Anh. Cô là chủ nhân của nhiều giải thưởng, bao gồm một giải Quả Cầu Vàng và một Giải Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh, kèm theo nhiều đề cử trong đó có một đề cử Giải Oscar và bốn đề cử Giải thưởng Điện ảnh Viện Hàn lâm Vương quốc Liên hiệp Anh. Forbes đã xếp hạng cô là một trong những nữ diễn viên có thù lao cao nhất thế giới năm 2020.

Blunt bắt đầu sự nghiệp diễn xuất vào năm 2011 trong vở kịch The Royal Family và qua vai diễn Catherine Howard trong loạt phim truyền hình ngắn Henry VIII (2003). Bộ phim điện ảnh đầu tiên mà cô tham gia là My Summer of Love (2004). Đến năm 2006, Blunt có hai vai diễn đột phá trong phim truyền hình Gideon's Daughter và phim điện ảnh Yêu nữ thích hàng hiệu. Bộ phim truyền hình Gideon's Daughter đã giúp cô thắng Giải Quả Cầu Vàng cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc. Danh tiếng của cô ngày càng tăng cao với những vai chính trong bộ phim tiểu sử The Young Victoria (2009), bộ phim hài lãng mạn Salmon Fishing in the Yemen (2011), các bộ phim khoa học viễn tưởng Bản đồ định mệnh (2011), Looper (2012) và Cuộc chiến luân hồi (2014), và phim nhạc kịch Khu rừng cổ tích (2014).

Blunt nhận được nhiều lời khen ngợi nhờ hóa thân vào vai một đặc vụ FBI nguyên tắc trong bộ phim hình sự Ranh giới (2015), một kẻ nghiện rượu trong bộ phim tâm lý giật gân Cô gái trên tàu (2016), và một người mẹ với khả năng sinh tồn trong bộ phim kinh dị của chồng cô, John Krasinski, Vùng đất câm lặng (2018), vai diễn đã mang về cho cô một giải SAG dành cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc. Sau đó, cô đã góp mặt trong phần hậu truyện Mary Poppins trở lại (2018) và Vùng đất câm lặng: Phần II (2021), bộ phim phiêu lưu kỳ ảo Jungle Cruise (2021), và loạt phim truyền hình ngắn mô phỏng miền Viễn Tây, The English (2022). Màn hóa thân của cô trong vai Katherine Oppenheimer trong bộ phim tiểu sử giật gân của Christopher Nolan, Oppenheimer (2023) đã giành về cho cô một đề cử Giải Oscar cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc.

Blunt đã làm việc với Viện Nói lắp Hoa Kỳ từ năm 2006 để giúp trẻ em khắc phục tình trạng nói lắp thông qua các nguồn tài liệu giáo dục và nâng cao nhận thức về thực tế của tình trạng này. Cô nằm trong ban giám đốc của viện và tổ chức một buổi tiệc để gây quỹ học bổng trị liệu ngôn ngữ cho trẻ em và người lớn.

Thời thơ ấu[sửa | sửa mã nguồn]

Emily Olivia Laura Blunt sinh ra ở London vào ngày 23 tháng Hai năm 1983.[1][2] Cô là người con thứ hai trong gia đình có bốn anh chị em, cô là con của một cựu diễn viên và giáo viên dạy tiếng Anh, Joanna Mackie,[3][4] và một luật sư cấp cao, Cố vấn của Nữ hoàng, Oliver Blunt.[5][6] Mẹ của cô đã từ bỏ diễn xuất để trở thành bà mẹ toàn thời gian trước khi Blunt bắt đầu đi học.[4][5] Blunt tự miêu tả bản thân là một đứa trẻ "lạ lùng và nhút nhát." [7] Thời thơ ấu, cô bắt đầu gặp khó khăn với tật nói lắp, thứ được cô miêu tả là làm suy yếu và "như một kẻ mạo danh trong cơ thể bạn."[8][9] Sợ hãi việc nói chuyện, Blunt dành nhiều thời gian quan sát mọi người như một trò chơi tỉ mỉ.[4][5] Cô nói lắp nặng nhất từ năm bảy tuổi cho đến năm mười bốn tuổi. Cô nhớ ơn người giáo viên đã khuyến khích cô diễn những vở kịch của lớp dùng những giọng nói khác với của bản thân, việc này đã giúp cô giải phóng bản thân và nói chuyện lưu loát, và cho cô sự tự tin để tiếp tục, cuối cùng khám phá ra tình yêu dành cho diễn xuất.[10][11] Blunt nói rằng tật nói lắp của cô đã giảm đi nhiều khi trưởng thành, nhưng thỉnh thoảng cô vẫn còn nói lắp khi cảm thấy căng thẳng.[8][9][12] Cô theo học trường Hurtwood House, một trường dự bị nội trú ở Surrey nổi tiếng với chương trình đào tạo biểu diễn nghệ thuật.[13] Sau khi trình diễn ở một vở kịch của trường ở Lễ hội Edinburgh, Blunt được phát hiện và ký hợp động với một người quản lý.[13][14] Cô đã hoàn thành những kỳ thi ở trường và bắt đầu đi thử vai.[14]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

2001 - 2004: Khởi đầu sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Vào tháng 11 năm 2001, Emily có vai diễn chính thức đầu tiên năm 18 tuổi trong vở kịchThe Royal Family của đạo diễn Peter Hall do nhà hát West End sản xuất, cô vào vai cháu gái của Judi Dench. Vở kịch đã được nhà phê bình phim Tom Keatinge ca ngợi, "Sự chỉ đạo của Peter Hall kết hợp với sự bày trí hoành tráng của Anthony Ward đã biến The Royal Family thành một đêm tuyệt vời để giải trí", và "vở kịch đã mang đến những diễn xuất tuyệt vời, với những màn thể hiện nặng ký của cả dàn diễn viên."[15] Emily đã được vinh danh là "Diễn viên mới xuất sắc" bởi tờ báo Evening Standard cho diễn xuất của mình. Cô tiếp tục diễn xuất trong vai Eugenie trong vở kịch Vincent in Brixton của Nicholas Wright tại Nhà hát Quốc gia, và Juliet trong vở kịch Romeo and Juliet do Indhu Rubasingham sản xuất tại Nhà hát Chichester Festival, cả hai vở kịch đều vào năm 2002.[16] Năm 2003, Emily lần đầu xuất hiện trên truyền hình trong bộ phim Boudica, phim kể về cuộc đời của nữ chiến binh thời trung cổ người Celt, người đã chiến đấu chống lại người Roma. Cùng năm đó, cô được khen ngợi nhờ vai diễn Nữ hoàng Catherine Howard của thế kỷ thứ 16 trong bộ phim truyền hình dài 2 tập Henry VIII.[16]

Năm 2004, Emily nhận được nhiều sự chú ý nhờ vai Tamsin trong bộ phim độc lập của Anh My Summer of Love, phim kể về cuộc tình của 2 cô gái trẻ đến từ 2 tầng lớp xã hội khác nhau trong bối cảnh miền quê nước Anh.[16] Đạo diễn Pawel Pawlikowski đã đánh giá cao Emily và bạn diễn Natalie Press trong một cuộc phỏng vấn "Cả Natalie và Emily đều rất thuần khiết và khác biệt, một điều hiếm thấy hiện nay. Họ tránh xa những thứ hiển nhiên, và có khả năng thể hiện những trạng thái phức tạp và tương phản. Hơn hết thảy, họ tràn đầy năng lượng và là chìa khóa của bộ phim." Nhà phê bình James Berardinelli của ReelViews đã khen ngợi bộ phim, gọi nó là "viên đá quý" bị "sự cường điệu" của những bom tấn Hollywood nuốt chửng, và chỉ ra rằng, "Cả Natalie Press và Emily Blunt [...] đều xuất sắc. Họ dễ dàng thành công trong việc lột tả sự thay đổi bản ngã, sử dụng cả ngôn ngữ lời nói và không lời để biểu lộ cảm xúc. Họ hiểu rõ nhân vật của mình và dùng tài năng để làm sống dậy nhân vật."[17] Emily đã nhận giải British Film Award của Evening Standard cho Diễn viên mới triển vọng cùng với Press..[18]

2005 - 2010: The Devil Wears Prada và bước đột phá trong sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Emily tham gia vào bộ phim truyền hình tâm lý của Anh Gideon's Daughter[16] bên cạnh Bill NighyMiranda Richardson, biên kịch và đạo diễn bởi Stephen Poliakoff, cô vào vai cô con gái duy nhất của Gideon Warner, một phát ngôn viên của Công đảng, thể hiện bởi Bill Nighy. Bộ phim ra mắt tại Liên hoan phim Quốc tế Hamptons vào năm 2005, và được phát sóng trên truyền hình Anh vào tháng 2 năm 2006. Được ca ngợi nhờ "diễn xuất chân thực,"[19] Emily chiến thắng giải Quả cầu vàng tại hạng mục Nữ diễn viên phụ xuất sắc trong Series, Miniseries hoặc Phim truyền hình.[20]

Sau đó, cô tiếp tục diễn xuất bên cạnh Meryl StreepAnne Hathaway trong bộ phim hài The Devil Wears Prada, nói về giới thời trang tại New York City. Emily Blunt vào vai Emily, trợ lý lâu năm của tổng biên tập tạp chí Runway, Miranda Priestly, thể hiện bởi Meryl Streep. Emily và Anne Hathaway được yêu cầu thực hiện một chế độ giảm cân khắc nghiệt cho vai diễn, đến mức Anne Hathaway sau đó tiết lộ rằng họ đã phát khóc.[21] Bộ phim đã gặt hái thành công từ giới chuyên môn lẫn thương mại, thu về 326,551,094 đô.[22] Mặc dù Meryl Streep là người được chú ý nhiều nhất, nhưng Emily cũng giành được nhiều sự khen ngợi, Clifford Pugh của tờ The Houston Chronicle đã khẳng định rằng "[Emily] đã có nhiều câu thoại hay nhất phim và thống lĩnh hầu hết mọi cảnh quay có cô ấy."[23] Emily đã nhận được 1 đề cử BAFTA và 1 đề cử Quả cầu vàng cho giải Nữ diễn viên phụ xuất sắc. Cô cũng được mời tham dự Lễ trao giải Oscar lần thứ 79 và cùng với Anne Hathaway lên trao giải cho hạng mục Phục trang xuất sắc, cả hai đã diễn giống như nhân vật của họ trong phim.[24] Emily tiếp tục tham gia cùng Susan Sarandon trong bộ phim độc lập Irresistible.

Emily tại Lễ trao giải BAFTA 2007

Sự nghiệp của Emily tiếp tục thăng tiến và năm 2007, cô tham gia 4 bộ phim: bộ phim kinh dị Wind Chill, phim tình cảm lãng mạn The Jane Austen Book Club, phim hài Dan in Real Life, và bộ phim hài tiểu sử Charlie Wilson's War.[16] Năm 2008, Emily diễn xuất trong 2 phim, Sunshine Cleaning trong vai Norah Lorkowski, một cô gái trẻ nổi loạn cùng với chị của mình, Rose, diễn xuất bởi Amy Adams, cùng nhau thành lập một công ty dọn dẹp hiện trường vụ án. Bộ phim ra mắt tại Liên hoan phim Sundance 2008 và nhận được nhiều đánh giá tích cực, đặc biệt là diễn xuất của Amy và Emily. Peter Travers của tạp chí Rolling Stone đã bình luận: "Đây là một bộ phim vui nhộn và cảm động,  nhờ có 2 nữ diễn viên tự tin xóa sạch những thứ sáo rỗng độc hại đã đe dọa xâm nhập vào bộ phim. Adams và Blunt đã hoàn thành xuất sắc công việc."[25] A. O. Scott của tờ The New York Times đồng ý và khẳng định, "Amy Adams và Emily Blunt [...] đã tiếp cận vai diễn của mình với sự sống động và tận tâm..."[26] Emily tiếp tục tham gia bộ phim The Great Buck Howard vào vai Valerie Brennan, cũng được ra mắt cùng dịp với Sunshine Cleaning.[16]

Năm 2009, Emily hóa thân thành Victoria của Anh trong bộ phim độc lập The Young Victoria, đạo diễn bởi Jean-Marc Vallée và biên kịch bởi Julian Fellowes, bộ phim chủ yếu xoay quanh những năm đầu đời và quãng thời gian cai trị của Nữ vương, cũng như cuộc hôn nhân của bà với Albrecht xứ Sachsen-Coburg và Gotha. Emily thừa nhận có rất ít hiểu biết về Nữ vương, nhưng sau khi nhận được lời tư vấn của mẹ, Emily nhận ra Nữ hoàng là một người "ấn tượng" và "có phong thái của một phụ nữ thế kỷ 21."[27] Diễn xuất của Emily đã nhận được sự ngợi ca của giới phê bình và cô đã nhận được 1 đề cử Quả cầu vàng cho giải Nữ diễn viên xuất sắc trong phim chính kịch[28] và đề cử Critics' Choice Awards cho giải Nữ diễn viên chính xuất sắc[29], bên cạnh nhiều giải thưởng khác. Owen Gleiberman của Entertainment Weekly đã kết luận rằng, "Những hình ảnh của đạo diễn Jean-Marc Vallée có một sự mượt mà và trang trọng, nhưng hình tượng Nữ hoàng không hề bị dát vàng – câu chuyện về một kẻ nắm quyền học cách kiểm soát đám đông, và Blunt đã biến hành trình đó trở nên chân thực và xác đáng." [30] Cùng năm đó, Emily đã nhận giải thưởng Nghệ sĩ Anh quốc của năm tại BAFTA Britannia Award.[31]

Cô tham gia trong bộ phim kinh dị ngắn Curiosity, và là lựa chọn đầu tiên của đạo diễn Jon Favreau cho vai Black Widow trong Iron Man 2, nhưng vì xung đột lịch trình với bộ phim hài Gulliver's Travels, cô buộc phải nhường lại vai diễn cho Scarlett Johansson.[32] Cô cũng lồng tiếng cho Matilda Mouseling, mẹ của nhân vật tiêu đề trong series truyền hình Angelina Ballerina: The Next Steps. Năm 2010, cô diễn xuất bên cạnh Benicio del ToroAnthony Hopkins trong bộ phim kinh dị Người sói, một tác phẩm làm lại từ bộ phim kinh điển cùng tên năm 1941. Bộ phim nhận được nhiều phản hồi tiêu cực, và theo tờ Los Angeles Times, là một trong những thất bại phòng vé lớn nhất mọi thời đại.[33][34] Bộ phim hồi hộp cô diễn cặp cùng Matt Damon,The Adjustment Bureau (2011), lại thành công hơn hẳn; trong phim Emily vào vai 1 diễn viên múa "bị một thế lực bí ẩn chia cắt" khỏi nhân vật của Damon, là một chính trị gia. Bộ phim thu về nhiều nhận xét tích cực, giới phê bình ca ngợi sự ăn ý giữa Emily và Matt.[35] Emily tiếp tục nhận được lời mời vào vai Đặc vụ Peggy Carter trong Captain America: The First Avenger nhưng giống như Iron Man 2, cô lại một lần nữa từ chối.[36]

2011 - 2014: Phim khoa học viễn tưởng và phim hài[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 2011, Emily tham gia bộ phim hài của Anh Salmon Fishing in the Yemen, đạo diễn bởi Lasse Hallström, cùng tham gia trong phim là Ewan McGregorKristin Scott Thomas. Cô vào vai một cố vấn tài chính cần tuyển dụng một chuyên gia về thủy sản, diễn xuất bởi Ewan McGregor, để giúp đỡ một thương gia hồi giáo mang môn thể thao câu cá đến với vùng sa mạc Yemen.[37] Phim ra mắt tại Liên hoan phim Quốc tế Toronto[38] và nhận được nhiều phản hồi tích cực cho diễn xuất của Emily và Ewan. Kenneth Turan của tờ Los Angeles Times nhấn mạnh "Blunt và McGregor là 2 trong số những diễn viên tài năng và quyến rũ nhất ngày nay, có khả năng diễn xuất với một phong cách tuyệt vời..."[39] Vai diễn đã mang về cho Emily một đề cử Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên xuất sắc trong phim hài/ca nhạc. Cùng năm đó, Emily có 1 vai khách mời trong The Muppets của Disney, vai nhân viên lễ tân của Miss Piggy; và tham gia trong bộ phim hài tâm lý độc lập Your Sister's Sister, bên cạnh Rosemarie DeWittMark Duplass.[40] Tháng 11 năm 2011, Emily trở thành đại sứ cho nhãn hiệu nước hoa mới của Yves Saint Laurent, Opium.[41]

Emily tại San Diego Comic-Con ở Trung tâm Hội nghị San Diego năm 2013.

Năm 2012, Emily tham gia bộ phim hài The Five-Year Engagement cùng Jason Segel, đạo diễn bởi Nicholas Stoller, trong phim cô và Jason Segel vào vai một cặp tình nhân gặp trục trặc tình cảm vì lễ đính hôn của họ luôn bị hoãn lại. Bộ phim nhận được nhận xét tích cực, Elizabeth Weitzman của New York Daily News nhấn mạnh rằng "Blunt chưa từng trông thoải mái như lúc này, sự ăn ý cô và Segel mang lại cảm giác ấm áp."[42] Emily tiếp tục tham gia trong Looper, bộ phim viễn tưởng noir hiện đại đạo diễn bởi Rian Johnson cùng với các bạn diễn Bruce WillisJoseph Gordon-Levitt. Emily đóng vai Sara, một bà mẹ đơn thân mạng mẽ sống trong một trang trại trồng ngô, gặp gỡ và nảy sinh tình cảm với nhân vật của Joseph Gordon-Levitt. Bộ phim được chọn công chiếu mở màn tại Liên hoan phim Quốc tế Toronto, và nhận được nhiều lời khen ngợi. Todd McCarthy của The Hollywood Reporter công nhận Emily đã, "thể hiện một cách đầy ấn tượng cả mặt mạnh mẽ lẫn yếu đuối của Sara."[43] Cùng năm đó, Emily cũng tham gia bộ phim hài tâm lý Arthur Newman cùng với Colin Firth, vào vai cô nàng rắc rối Charlotte, đang cố trốn chạy khỏi quá khứ.[44] Bộ phim nhận được nhiều phản ứng trái chiều và tiêu cực.[45][46]

Năm 2014, Emily đóng cặp với Tom Cruise trong Cuộc chiến luân hồi, bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết của Nhật All You Need Is Kill của tác giả Hiroshi Sakurazaka.[47] Emily vào vai Rita Vrataski, một chiến binh của Lực lượng Đặc biệt với nhiệm vụ huấn luyện nhân viên quan hệ công chúng, diễn xuất bởi Tom Cruise chống lại sự xâm chiếm của sinh vật ngoài hành tinh. Emily đã phải tập luyện 3 tháng cho vai diễn, "mọi thứ từ tập thể hình cho đến chạy nước rút, yoga, tập đi dây trên không và thể dục dụng cụ." và học võ Krav Maga.[48] Bộ phim thu về thành công thương mại, doanh thu 370,541,256 đô,[49] lẫn đánh giá tích cực từ giới phê bình. Nhiều nhà phê bình đã nhấn mạnh về sự khác biệt trong cách thể hiện nhân vật của Emily, Justin Chang của Variety viết, "Blunt đã rất thận trọng, tràn đầy năng lượng và cảm xúc cho một vai diễn không cần quá nhiều sự cố gắng."[50] Vai diễn đã mang về cho Emily một giải thưởng Critics' Choice Movie Award ở hạng mục Nữ diễn viên chính xuất sắc trong phim hành động.[51] Phần tiếp theo của bộ phim đang được thực hiện, Emily và Tom Cruise được mong đợi sẽ trở lại.[52]

Emily tiếp tục vào vai vợ của Người làm bánh trong bộ phim chuyển thể từ vở nhạc kịch cùng tên, Into the Woods của hãng phim Walt Disney, đạo diễn bởi Rob Marshall cùng dàn diễn viên nổi tiếng James Corden, Anna Kendrick, Chris Pine, và bạn diễn của Emily trong The Devil Wears Prada, Meryl Streep trong vai Phù thủy.[53][54] Trớ trêu thay, trong lúc ghi hình Emily lại mang thai trong khi nhân vật của cô lại không có khả năng có con.[55][56] Phim đạt được thành công về mặt thương mại và nhận được nhiều phản hồi tích cực, Emily cũng được khen ngợi về diễn xuất và khả năng ca hát. Lou Lumenick của tờ The New York Post cho rằng Emily là một trong những nữ diễn viên xuất sắc nhất năm,[57] trong khi Richard Corliss của Time nhấn mạnh rằng "Khi Blunt xuất hiện trên màn ảnh, khu rừng như sống dậy với phép thuật từ những mảnh ghép của câu chuyện cổ tích..."[58] Emily đã nhận được một đề cử Quả cầu vàng cho Nữ diễn viên xuất sắc trong phim hài/ca nhạc.[59]

2015 - hiện nay: Nữ diễn viên thành công[sửa | sửa mã nguồn]

Emily tại buổi công chiếu Cuộc chiến luân hồi ở Pháp năm 2014.

Năm 2015, Emily tham gia bộ phim hình sự giật gân Ranh giới, đạo diễn bởi Denis Villeneuve cùng các bạn diễn Benicio del ToroJosh Brolin. Emily vào vai Kate Macer, một đặc vụ FBI nguyên tắc được giao nhiệm vụ đánh hạ thủ lĩnh của một băng đảng buôn ma túy lớn tại Mexico. Bộ phim được chọn tham gia tranh giải Cành cọ vàng tại Liên hoan phim Cannes 2015 và nhận được nhiều lời khen ngợi. Diễn xuất của Emily cũng được đánh giá cao, được Dan Jolin của tạp chí Empire nhận xét là "đa diện" và nói rằng "Sự quyết tâm của cô ấy đã biến thành nỗi thống khổ,"[60] trong khi Peter Bradshaw của The Guardian cho rằng nhân vật của cô thật đáng kinh ngạc, ông đã khen ngợi Emily vì đã "lỳ lợm đương đầu với mọi sự vô lý, bằng lối diễn tập trung và trực diện."[61] Emily đã nhận được đề cử Critics' Choice Awards thứ 2 cho Nữ diễn viên xuất sắc trong phim hành động.[62]

Năm 2016, Emily cùng Chris Hemsworth, Charlize TheronJessica Chastain tham gia The Huntsman: Winter's War, bộ phim vừa là tiền truyện vừa là hậu truyện của Snow White and the Huntsman. Đạo diễn bởi Cedric Nicolas-Troyan, bộ phim vừa thất bại ở phòng vé vừa bị các nhà phê bình chê bai.[63][64] Emily sau đó được chọn cho vai chính trong The Girl on the Train, bộ phim chuyển thể từ cuốn tiểu thuyết ăn khách cùng tên của Paula Hawkins, đạo diễn bởi Tate Taylor, cùng với sự tham gia của Luke Evans, Rebecca Ferguson, và Justin Theroux. Emily đóng vai Rachel, một người phụ nữ nghiện rượu đã li dị chồng đang bị tình nghi là thủ phạm của một vụ mất tích. Mặc dù giới phê bình đưa ra nhiều phản ứng trái chiều, cho rằng bộ phim đã thất bại trong việc chuyển thể tiểu thuyết lên màn ảnh, nhưng diễn xuất của Emily đều được thống nhất là xuất sắc. Peter Travers của Rolling Stone nhấn mạnh, "bộ phim có tiết tấu gấp gáp hơn so với truyện, nhưng Blunt đã đắm chìm vào một nhân vật say xỉn không tỉnh táo và có khả năng là kẻ giết người và cô ấy đã biến Cô gái đó thành người dẫn dắt câu chuyện."[65] Vai diễn trong The Girl on the Train đã mang về cho Emily một đề cử Screen Actors Guild (SAG) và một đề cử BAFTA cho Nữ diễn viên chính xuất sắc.[66][67]

Emily năm 2018.

Trong năm 2017, Emily chỉ tham gia lồng tiếng cho 2 bộ phim hoạt hình là My Little Pony: The MovieAnimal Crackers. Đến năm 2018, cô trở lại màn ảnh cùng chồng của mình là John Krasinski trong bộ phim kinh dị A Quiet Place, xoay quanh một gia đình phải học cách sinh tồn để trốn thoát khỏi một sinh vật nguy hiểm săn mồi bằng tiếng động.[68] Ban đầu cả John và Emily đều không hề dự định sẽ cùng nhau tham gia bộ phim; nhưng sau khi đọc kịch bản, Emily đã thuyết phục John cho cô đóng vai chính.[69] A Quiet Place được công chiếu vào đêm mở màn của Liên hoan phim South by Southwest và thu về nhiều lời khen ngợi về mặt chuyên môn.[70][71] Eric Kohn của IndieWire vỗ tay khen ngợi dàn diễn viên vì đã mang lại "sự căng thẳng tuyệt vời cho những cảnh quay với một sự tinh tế hiếm có đối với thể loại phim này," trong khi Laura Prudom của IGN viết rằng, "Đặc biệt là Blunt, cô ấy bị đặt vào những tình huống trớ trêu một cách gần như là nực cười, nếu như không có một màn diễn xuất vô cùng thuyết phục như vậy."[72][73]

Cùng năm đó, Emily hóa thân thành nhân vật cùng tên (vai diễn trước đây được thể hiện bởi Julie Andrews) trong bộ phim nhạc kịch thần thoại Mary Poppins Returns được đạo điễn bởi Rob Marshall, bộ phim là hậu truyện của bản phim năm 1964.[74] Viết cho tờ Variety, Owen Gleiberman đã gọi Emily là "hoàn hảo trên mọi khía cạnh" và nói thêm rằng cô đã "sống trong tinh thần của Mary Poppins một cách đầy mê hoặc, và trong âm nhạc, cô ấy đã tạo nên ánh hào quang của riêng mình."[75] Emily đã nhận được 2 đề cử SAG Awards cho các vai diễn trong A Quiet PlaceMary Poppins Returns, cũng như đề cử Quả cầu vàng thứ 6 trong sự nghiệp cho Mary Poppins Returns.[76][77] Năm 2020, Blunt làm khách mời trong loạt phỏng vấn Some Good News của chồng cô, đăng tải trên Youtube trong đại dịch COVID-19. Cô tham gia bộ phim tình cảm lãng mạn Wild Mountain Thyme – dựa trên vở kịch Outside Mullingar của John Patrick Shanley. Vai diễn yêu cầu cô phải nói giọng Ai-len; cả bộ phim lẫn giọng nói của cô đều không được đánh giá cao. Cùng năm đó, Forbes xếp cô đứng hạng sáu trong số những nữ diễn viên có thù lao cao nhất thế giới, với thu nhập hàng năm là 22.5 triệu đô la Mỹ.

Blunt một lần nữa hóa thân vào vai diễn trong hậu truyện của bộ phim kinh dị A Quiet Place Part II (2021), phim đã được ra sau một năm bị trì hoãn vì đại dịch COVID-19. Phim trở thành một trong những bộ phim lớn của Hollywood được chiếu tại rạp kể từ khi đại dịch bùng phát.[78] Peter Bradshaw đã bày tỏ tiếc nuối rằng Blunt "xuất chúng" không có đủ thời lượng.[79] Cùng với phần đầu tiên, phim cũng gặt hái được thành công thương mại.[80] Cuối năm đó, Blunt tham gia cùng Dwayne Johnson trong bộ phim phiêu lưu Jungle Cruise, dựa trên eponymous amusement ride.[81] Phim được phát hành đồng thời tại rạp và trực tuyến trên Disney+ Premier Access.[82] Jeannette Catsoulis của tờ The New York Times không thích bộ phim và cho rằng "kể cả khi Emily Blunt, cố hết mình để bắt chước lại Katharine Hepburn, cũng không thể giữ cho con thuyền thủng đáy này nổi lên."[83] Năm tiếp theo, Blunt vào vai một người mẹ đi báo thù trong loạt phim truyền hình ngắn tập The English, một tác phẩm miền viễn tây của đạo diễn Hugo Blick.[84] Các nhà phê bình đã rất ấn tượng với diễn xuất của cô.[85] Lucy Mangan của tờ The Guardian đã phát biểu, "Blunt đạt đến đỉnh cao, mang đến cho chúng ta một người phụ nữ ngoan cường với ý chí không thể khuất phục."[86] Cô đã nhận về một đề cử SAG cho vai diễn.[87]

Trong bộ phim tiểu sử Oppenheimer (2023) của Christopher Nolan, diễn xuất bên cạnh Cillian Murphy vai J. Robert Oppenheimer, Blunt hóa thân vào người vợ của nhà khoa học cùng tên, Katherine, bà từng là một thành viên của Đảng Cộng sản Hoa kỳ.[88] Cô đã cắt giảm thù lao cho phim, chỉ nhận về 4 triệu đô thay vì 10 - 20 triệu đô như thường lệ.[89] Nolan nói rằng ông đã nghĩ về việc "trốn chạy" khỏi nhân vật này khi viết kịch bản vì bà ấy thật "đáng sợ", nhưng Blunt đã thổi hồn vào nhân vật và làm ông ngạc nhiên với cách cô đồng cảm với những phẩm chất tiêu cực của bà; "Không tự phụ, không e sợ sự phỉ báng, không mong muốn kiểm soát sự hiện diện của bà ấy."[90] Bộ phim đã nhận được nhiều sự khen ngợi, mặc dù vẫn có những chỉ trích về cách khắc họa nhân vật nữ.[91][92] Diễn xuất của Blunt trong phim đã được ca ngợi,[93][94] và được nhắc đến vì đã nâng tầm những chất liệu ít ỏi mà cô có.[95][96] Viết cho tờ Empire, Dan Jolin nói rằng Blunt "thoát khỏi nguyên mẫu người vợ cam chịu/ủng hộ chồng với một Kitty Oppenheimer say xỉn nhưng sắc bén xảo quyệt" và đã mang lại "một trong những cảnh phim kích động nhất với màn đối thoại căng thẳng cùng gã luật sư đầu gấu Roger Robb",[97] và Tomris Laffly của The Wrap gọi diễn xuất của cô là "thu hút một cách tinh tế".[98] Blunt một lần nữa nhận về đề cử Quả Cầu Vàng, SAG, và BAFTA,[99][100][101] cùng với đề cử Giải Oscar đầu tiên cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc.[102] Với doanh thu hơn 950 triệu đô trên toàn thế giới, Oppenheimer trở thành bộ phim có doanh thu cao nhất của Blunt.[103] Phim tiếp theo của cô ra mắt cùng năm đó là bộ phim hình sự Netflix, Pain Hustlers cùng Chris Evans, không được các nhà phê bình đánh giá cao.[104][105]

Sắp tới Blunt sẽ diễn xuất bên cạnh Ryan Gosling trong bộ phim hành động Kẻ thế thân của đạo diễn David Leitch,[106] và lồng tiếng cho một nhân vật trong bộ phim kỳ ảo có nhân vật hoạt hình sắp ra mắt của Krasinski, IF.[107] Cô cũng sẽ hóa thân thành nữ thám tử tiên phong Kate Warne trong bộ phim chưa được đặt tên, đạo diễn bởi Jaume Collet-Serra, phim cũng sẽ do cô sản xuất.[108]

Đón nhận[sửa | sửa mã nguồn]

Blunt luôn được xem là một diễn viên linh hoạt và biến hóa trong nhiều dạng vai, bao gồm chính kịch, hài kịch, nhạc kịch, và hành động.[116] The Guardian đánh giá khả năng của cô không bị đóng khung trong một dạng vai diễn, và viết rằng cô là "chuyên gia trong những câu nói nhẹ nhàng có tính toán", ca ngợi "sự thấu hiểu sâu sắc về cách giúp nhân vật nổi bật và ngữ giọng trôi chảy" của cô.[117] Bình luận về khả năng biểu diễn lôi cuốn của cô, Rachel Rosenblint của Elle nói rằng "cô ấy có sở trường chơi những nốt nhẹ nhàng và không lời như một bậc thầy".[111] The New York Times đánh giá Blunt có một "cảm quan cho những điều khác thường và một sự khiêm nhường quyến rũ khi vào vai những người phụ nữ khó ưa" và nhấn mạnh "tinh thần mạo hiểm" của cô với tư cách là một người biểu diễn.[118] Miêu tả những sắc thái của một vai diễn, The Age viết, "Không nghi ngờ gì khi Meryl Streep từng tuyên bố Blunt "một trong vài nữ diễn viên trẻ xuất sắc tôi từng làm việc cùng, có lẽ là xuất sắc nhất".[109] Aaron Hicklin nói trên tờ The Guardian rằng sự nghiệp của Blunt "đã đánh dấu sự thành công trong việc vươn tới những vai diễn mới".[119] The Los Angeles Times đánh giá từ khi bắt đầu sự nghiệp, Blunt "đã luôn sẵn sàng cho mọi thử thách", và nhấn mạnh "sự khéo léo" của cô khi chuyển đổi giữa chính kịch và hài kịch.[120] Screen Rant nói rằng Blunt có "nhiều vai diễn để đời trong tay".[121] Những vai diễn hành động của cô cũng để lại ấn tượng, với tờ Collider viết rằng "minh chứng cho thấy điện ảnh hành động cũng có tiềm năng trở nên cảm xúc và nhân đạo hơn", và cho rằng Blunt là một trong số "người trình diễn hiếm hoi" nổi bật với cả hai vai trò diễn viên và ngôi sao điện ảnh.[113] Vanity Fair bình luận rằng cô đã thể hiện "một chiếc kính vạn hoa của những nhân vật đầy mê hoặc" và nhận thấy một sự "cân bằng tinh tế" khi "một ngôi sao điện ảnh với một diễn xuất đa dạng."[122]

Hoạt động xã hội[sửa | sửa mã nguồn]

Blunt hỗ trợ kêu gọi và gây quỹ cho Quỹ Malala, một tổ chức phi lợi nhuận ủng hộ giáo dục cho các bé gái, đồng sáng lập bởi Malala Yousafzai.[123] Cô còn làm việc cùng với Family Reach, một tổ chức giúp hỗ trợ tài chính cho những gia đình có người bị ung thư.[124] Blunt cũng đang làm việc cùng Viện Nói lắp Hoa Kỳ kể từ năm 2006 để giúp trẻ em vượt qua được tật nói lắp thông qua nguồn lực giáo dục và nâng cao nhận thức về thực trạng của bệnh.[125] Cô nằm trong ban giám đốc của viện và tổ chức buổi dạ tiệc hàng năm để gây quỹ học bổng trị liệu ngôn ngữ cho trẻ em và người lớn.[126][127]

Đời tư[sửa | sửa mã nguồn]

Emily và chồng, John Krasinski, tại Lễ trao giải Quả cầu vàng lần thứ 70 năm 2013.

Emily Blunt từng hẹn hò với ca sĩ người Canada Michael Bublé 3 năm. Họ gặp nhau năm 2005 ở hậu trường lễ trao giải Logie Awards của Úc tại Melbourne. Họ cùng sở hữu một căn nhà ở Vancouver, British Columbia, trước khi chia tay vào năm 2008.[128]

Tháng 11 năm 2008, Emily bắt đầu hẹn hò với nam diễn viên người Boston John Krasinski. Họ đính hôn vào tháng 8 năm 2009[129], và kết hôn vào tháng 7 năm 2010 tại Como, Italy.[130] Họ có hai con gái Hazel (sinh năm 2014)[131][132][133] và Violet (sinh năm 2016).[134][135]

Anh rể của Emily, Stanley Tucci, là bạn diễn của cô trong bộ phim The Devil Wears Prada. Năm 2012, Tucci kết hôn với chị gái của Emily là Felicity, một nhà đại diện xuất bản văn học. Emily chính là người làm mai cho hai người.[136][137] Em trai của Emily là Sebastian cũng là một diễn viên.[138] Tháng 8 năm 2015, Emily nhập quốc tịch Mỹ.[139] Hiện cô đang mang cả hai quốc tịch Anh và Mỹ để thuận tiện cho việc đóng thuế và xin visa. Emily nói cô cảm thấy cắn rứt khi đã bỏ đi lòng trung thành duy nhất của mình dành cho Anh Quốc.[140]

Năm 2015, Emily xếp hạng 98 trong danh sách Những người phụ nữ quyến rũ nhất thế giới của FHM.[141]

Thành tựu diễn xuất và giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Theo trang phê bình phim tổng hợp Rotten Tomatoes và trang thống kê doanh thu phòng vé Box Office Mojo, những bộ phim được giới chuyên môn đánh giá cao và thành công thương mại bao gồm của Blunt My Summer of Love (2004), Yêu nữ thích hàng hiệu (2006), Sunshine Cleaning (2008), Your Sister's Sister (2011), Looper (2012), Cuộc chiến luân hồi (2014), Khu rừng cổ tích (2014), Ranh giới (2015), Cô gái trên tàu (2016), Vùng đất câm lặng (2018), Mary Poppins trở lại (2018), Vùng đất câm lặng: Phần II (2021), and Oppenheimer (2023).[142][143]

Blunt đã nhận được nhiều giải thưởng dành cho các vai diễn trên phim truyền hình, phim điện ảnh và sân khấu kịch, bao gồm một Giải Quả cầu vàng, một Giải Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh, cùng một đề cử Giải thưởng Viện Hàn lâm và bốn đề cử Giải thưởng Điện ảnh Viện Hàn lâm Vương quốc Liên hiệp Anh.

Những đề cử đầu tiên của Blunt cho Diễn xuất đột phá và Nữ diễn viên chính xuất sắc tại Giải thưởng Phim Độc lập Anh quốc nhờ vai diễn trong My Summer of Love (2004) và The Young Victoria (2009). The Young Victoria (2009) cũng giúp cô giành về đề cử Giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh và Giải Quả cầu vàng dành cho Nữ diễn viên chính xuất sắc. Diễn xuất của cô trong bộ phim của đài BBC năm 2006 Gideon's Daughter đã giúp cô giành chiến thắng Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phụ trong loạt truyện ngắn hoặc phim truyền hình xuất sắc nhất. Cô cũng nhận về nhiều đề cử Giải thưởng Điện ảnh Viện Hàn lâm Vương quốc Liên hiệp AnhGiải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất cho vai diễn trong Yêu nữ thích hàng hiệu (2006).

Blunt nhận về ba đề cử Giải Quả cầu vàng cho nữ diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất cho các bộ phim Salmon Fishing in the Yemen (2012), Khu rừng cổ tích (2014) và Mary Poppins trở lại (2018). Mary Poppins trở lại (2018) cũng giúp cô giành về nhiều đề cử Giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnhGiải SAG cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Cô đã chiến thắng giải Giải Lựa chọn của giới phê bình điện ảnh cho vai chính trong phim hành động khoa học viễn tưởng Cuộc chiến luân hồi (2014), và nhận được nhiều đề cử tại hạng mục này nhờ các phim Looper (2012) và Ranh giới (2015). Ranh giới (2015) cũng giành về cho cô một đề cử Giải AACTA.

Màn hóa thân vào vai một kẻ nghiện rượu trong bộ phim tâm lý tội phạm giật gân Cô gái trên tàu (2016) đã giành về cho cô đề cử Giải thưởng Điện ảnh Viện Hàn lâm Vương quốc Liên hiệp AnhGiải SAG cho nữ diễn viên chính xuất sắc nhất. Nhờ diễn xuất trong bộ phim kinh dị năm 2018 Vùng đất câm lặng, Blunt đã thắng giải Giải SAG cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất và nhận được đề cử Giải AACTA. Loạt phim ngắn tập của Amazon Prime VideoBBC giành về cho cô một đề cử Giải Nghiệp đoàn diễn viên màn ảnh cho Nữ diễn viên phụ xuất sắc. Màn hóa thân vào vai Katherine Oppenheimer trong bộ phim tiểu sử giật gân 2023 của Christopher Nolan, Oppenheimer đã thu về Giải Oscar cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất, BAFTA, Giải BFCA cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất, Giải Quả cầu vàngGiải SAG cho nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “Emily Blunt: British actress”. Britannica. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2020. Truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2020.
  2. ^ “Emily Blunt Interview”. Seacrest Studios. 3 tháng 4 năm 2023. Sự kiện xảy ra vào lúc 12:37. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 7 năm 2023 – qua YouTube.
  3. ^ Taylor, Ella (26 tháng 2 năm 2009). “Down to Earth, Even When Off the Wall”. The New York Times. ISSN 0362-4331. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 11 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 11 năm 2015.
  4. ^ a b c “Emily Blunt: 'Everyone wants the first bite'. The Guardian. 4 tháng 2 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2024.
  5. ^ a b c d Day, Elizabeth (20 tháng 6 năm 2009). “Enter a new leading lady”. The Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 12 năm 2009.
  6. ^ “Oliver Blunt, Esq, QC Authorised Biography – Debrett's People of Today”. debretts.com. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 3 năm 2011.
  7. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên SMH 20
  8. ^ a b Josh Horowitz (3 tháng 8 năm 2023). “Emily Blunt talks Oppenheimer, The Rock, superheroes, Edge of Tomorrow sequel”. Happy Sad Confused (Podcast). Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2024.
  9. ^ a b “Emily Blunt Says Living With a Stutter Is Like Having an 'Imposter' in Your Body 'Who Doesn't Pay Rent'. Variety. 16 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2023.
  10. ^ “Emily Blunt Talks About Stuttering”. Stuttering Foundation of America. 6 tháng 5 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 7 năm 2015.
  11. ^ “Emily Blunt on How She Overcame Her Stutter”. Vulture. 8 tháng 6 năm 2011. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  12. ^ “Helen Mirren, Emily Blunt, Ed Byrne, The Wanted”. The Graham Norton Show. Mùa 8. Tập 15. 4 tháng 2 năm 2011. BBC One. Truy cập ngày 2 tháng 1 năm 2024.
  13. ^ a b “The Face”. The Times. 26 tháng 3 năm 2007. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2024.
  14. ^ a b “Emily Blunt Career Retrospective”. SAG-AFTRA Foundation. 22 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2024.
  15. ^ Keatinge, Tom. “The Royal Family”. London Theatre Archive. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
  16. ^ a b c d e f “Emily Blunt- Biography”. Yahoo Movies. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 3 năm 2013. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  17. ^ Berardinelli, James. “My Summer Of Love”. ReelViews. Truy cập ngày 5 tháng 7 năm 2009.
  18. ^ Jones, Alison (ngày 22 tháng 6 năm 2012). “Emily Blunt: Doing my own dishes helps me stay grounded”. Birmingham Post. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  19. ^ Cassady Jr., Charles. “Gideon's Daughter”. Common Sense Media. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 6 tháng 7 năm 2017.
  20. ^ “Emily Blunt 2007 Golden Globes Acceptance speech”. YouTube. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  21. ^ Tan, Michelle (ngày 27 tháng 8 năm 2007). “Anne Hathaway Gets Fit for Get Smart”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 9 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2018.
  22. ^ “The Devil Wears Prada”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2016.
  23. ^ Elliott, Michael; undated; A Movie Parable: The Devil Wears Prada; christiancritic.com. Truy cập ngày 24 tháng 12 năm 2006. Lưu trữ 2006-11-26 tại Wayback Machine
  24. ^ “Devil Wears Prada Forced Emily Blunt To Emaciate Herself”. Cinemablend.com. ngày 11 tháng 7 năm 2006. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2010.
  25. ^ Travers, Peter (ngày 11 tháng 3 năm 2009). “Sunshine Cleaning: Review”. Rolling Stone. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 8 năm 2009. Truy cập ngày 10 tháng 8 năm 2009.
  26. ^ Scott, A. O. (ngày 13 tháng 3 năm 2009). “Movie Review: Sunshine Cleaning (2008)”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 12 tháng 6 năm 2009.
  27. ^ Salisbury, Mark (ngày 1 tháng 11 năm 2009). “Emily Blunt is 'The Young Victoria'. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 9 năm 2011. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2011.
  28. ^ “Nominations and Winners 2009”. Hollywood Foreign Press Association. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2011.
  29. ^ “The 15th Critics' Choice Movie Awards Nominees”. Broadcast Film Critics Association. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2010. Truy cập ngày 30 tháng 6 năm 2011.
  30. ^ Gleiberman, Owen (ngày 30 tháng 12 năm 2009). “The Young Victoria Review”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 28 tháng 7 năm 2011.
  31. ^ “Britannia Award Honorees – Awards & Events – Los Angeles – The BAFTA site”. British Academy of Film and Television Arts (BAFTA). Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 11 năm 2011. Truy cập ngày 31 tháng 7 năm 2012.
  32. ^ “Former 'Iron Man 2' Black Widow, Emily Blunt, Speaks Out About Losing Role”. splashpage.mtv.com. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 5 năm 2015.
  33. ^ “The Wolfman (2010)”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 1 năm 2009. Truy cập ngày 13 tháng 2 năm 2010.
  34. ^ Eller, Claudia,"The costliest box office flops of all time", Los Angeles Times (ngày 15 tháng 1 năm 2014) Lưu trữ 2014-05-05 tại Wayback Machine
  35. ^ “Emily Blunt To Star Opposite Matt Damon In The Adjustment Bureau”. Slashfilm.com. ngày 14 tháng 7 năm 2009. Bản gốc lưu trữ ngày 27 tháng 5 năm 2012. Truy cập ngày 13 tháng 3 năm 2010.
  36. ^ “Marvel makes Emily Blunt an offer for 'Captain America,' but British actress probably will say no – Updated”. Los Angeles Times. ngày 2 tháng 4 năm 2010. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2010.
  37. ^ Lasse Hallström goes Fishing In The Yemen Lưu trữ 2013-07-04 tại Wayback Machine TotalFilm.com
  38. ^ Punter, Jennie (ngày 26 tháng 7 năm 2011). “Toronto unveils first pix”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 7 năm 2011.
  39. ^ Turan, Kenneth (ngày 9 tháng 3 năm 2012). “Movie review: 'Salmon Fishing in the Yemen'. Los Angeles Times. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 12 năm 2012. Truy cập ngày 2 tháng 12 năm 2012.
  40. ^ A. O. Scott (ngày 14 tháng 6 năm 2012). “Solitary Retreat to a Remote Island Leads to Many Mix-Ups”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 1 tháng 8 năm 2012.
  41. ^ Whitworth, Melissa (ngày 4 tháng 11 năm 2011). “Emily Blunt's Opium campaign revealed”. The Daily Telegraph. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  42. ^ “Movie Review: 'The Five-Year Engagement'. New York Daily News. ngày 27 tháng 4 năm 2012. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 2 năm 2015. Truy cập ngày 20 tháng 1 năm 2014.
  43. ^ McCarthy, Todd (ngày 6 tháng 9 năm 2012). “Looper: Toronto Review”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 4 tháng 10 năm 2012.
  44. ^ "Emily Blunt and Colin Firth in Arthur Newman, Golf Pro"[liên kết hỏng], ngày 14 tháng 5 năm 2011, Britscene
  45. ^ “Arthur Newman Reviews”. Metacritic.com. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2013.
  46. ^ “Critic Reviews for Arthur Newman”. Rottentomatoes.com. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 5 năm 2013. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2013.
  47. ^ Szalai, Georg (ngày 10 tháng 1 năm 2012). “Tom Cruise's 'All You Need Is Kill' to Hit Theaters in March 2014”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  48. ^ Alexander, Bryan (ngày 10 tháng 12 năm 2013). “Sneak peek: 'Edge of Tomorrow' suits Cruise and Blunt”. USA Today. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 8 tháng 5 năm 2014.
  49. ^ “Edge of Tomorrow”. boxofficemojo.com. Box Office Mojo. ngày 11 tháng 9 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2016.
  50. ^ Chang, Justin (ngày 22 tháng 5 năm 2014). “Film Review: 'Edge of Tomorrow'. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 23 tháng 5 năm 2014. Truy cập ngày 22 tháng 5 năm 2014.
  51. ^ Douglas, Edward (ngày 16 tháng 1 năm 2015). “The Winners of the 20th Annual Critics Choice Movie Awards”. comingsoon.net. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 1 năm 2015.
  52. ^ Chitwood, Adam (ngày 15 tháng 1 năm 2018). “Exclusive: Doug Liman Says 'Edge of Tomorrow 2' Could Be His Next Film”. Collider. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 16 tháng 1 năm 2018.
  53. ^ “Emily Blunt Confirms Into the Woods Starring Role; Jake Gyllenhaal, Too?”. BroadwayWorld.com. ngày 5 tháng 6 năm 2013. Bản gốc lưu trữ ngày 8 tháng 6 năm 2013. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2013.
  54. ^ “Emily Blunt to Sing Better in Into the Woods Than She Did in That Karaoke Video”. Vulture.com. ngày 5 tháng 6 năm 2013. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 5 tháng 6 năm 2013.
  55. ^ Abramovitch, Seth (ngày 10 tháng 12 năm 2014). “Perverted Wolves, Cheating Wives and a Fired 10-Year-Old: The Dark Path to Disney's 'Into the Woods'. The Hollywood Reporter. Prometheus Global Media. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 13 tháng 12 năm 2014.
  56. ^ Gioia, Michael (ngày 2 tháng 12 năm 2014). “Emily Blunt On Hiding Her Real-Life Baby Bump, Vocal Nerves and the Much-Talked-About "Moment" in the "Woods". Playbill.com. Playbill, Inc. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2015.
  57. ^ Lumenick, Lou. “Bewitching 'Into the Woods' is this century's best musical”. New York Post. Lưu trữ bản gốc ngày 25 tháng 8 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 7 năm 2017.
  58. ^ Corliss, Richard (ngày 27 tháng 12 năm 2014). “Review: Into the Woods: A Disney Musical for Adults of All Ages”. Time. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 12 năm 2014. Truy cập ngày 27 tháng 12 năm 2014.
  59. ^ Gray, Tim (ngày 11 tháng 12 năm 2014). “Golden Globes: 'Birdman,' 'Fargo' Top Nominations”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2015. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2014.
  60. ^ “Empire's Sicario Review”. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 15 tháng 9 năm 2015.
  61. ^ Bradshaw, Peter (ngày 8 tháng 10 năm 2015). “Sicario review – Emily Blunt at the sharp end in war on drugs”. the Guardian. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 10 năm 2015. Truy cập ngày 30 tháng 10 năm 2015.
  62. ^ Hipes, Patrick (ngày 14 tháng 12 năm 2015). “Critics' Choice Awards Nominations: 'Mad Max' Leads Film; ABC, HBO, FX Networks & 'Fargo' Top TV”. Deadline Hollywood. Los Angeles, California: Penske Media Corporation. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 12 năm 2015. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2015.
  63. ^ “The Huntsman: Winter's War (2016)”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 9 tháng 1 năm 2017.
  64. ^ Scott, A. O. (ngày 21 tháng 4 năm 2016). “Review: 'The Huntsman,' a Study in Hollywood's Overstuffed Playbook”. The New York Times. New York City: New York Times Company. Lưu trữ bản gốc ngày 5 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 4 tháng 3 năm 2018.
  65. ^ Travers, Peter (ngày 4 tháng 10 năm 2016). 'Girl on the Train' Review: Emily Blunt Powers Sex-Lies-and-Murder Mystery”. Rolling Stone. New York City: Wenner Media LLC. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 10 năm 2016. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2016.
  66. ^ Ritman, Alex (ngày 9 tháng 1 năm 2017). “BAFTA Awards: 'La La Land' Leads Nominations”. The Hollywood Reporter. Los Angeles, California: Eldridge Industries. Lưu trữ bản gốc ngày 10 tháng 1 năm 2017. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2017.
  67. ^ “SAG Awards 2017: The Complete List of Nominations”. The Hollywood Reporter. Los Angeles, California: Eldridge Industries. ngày 14 tháng 12 năm 2016. Truy cập ngày 14 tháng 12 năm 2016.
  68. ^ Kroll, Justin (ngày 15 tháng 3 năm 2017). “John Krasinski to Write, Direct and Star With Emily Blunt in 'Quiet' Thriller”. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2018.
  69. ^ Kroll, Justin (ngày 15 tháng 3 năm 2017). “John Krasinski to Write, Direct and Star With Emily Blunt in 'Quiet' Thriller”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 12 năm 2017. Truy cập ngày 17 tháng 11 năm 2017.
  70. ^ Derschowitz, Jessica (ngày 31 tháng 1 năm 2018). “John Krasinski and Emily Blunt supernatural thriller A Quiet Place to open SXSW Film Festival”. Entertainment Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 1 tháng 2 năm 2018. Truy cập ngày 31 tháng 1 năm 2018.
  71. ^ Nordine, Michael (ngày 10 tháng 3 năm 2018). 'A Quiet Place' Review Roundup: John Krasinski's SXSW Thriller Is Leaving Critics Speechless”. IndieWire. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2018.
  72. ^ Kohn, Eric (ngày 9 tháng 3 năm 2017). 'A Quiet Place' Review: John Krasinski's Monster Movie is a Riveting, Near-Silent Thriller – SXSW 2018”. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2018.
  73. ^ Prudom, Laura (ngày 10 tháng 3 năm 2017). “A Quiet Place Review - SXSW”. Lưu trữ bản gốc ngày 24 tháng 3 năm 2018. Truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2018.
  74. ^ “Mary Poppins Returns, with Emily Blunt and Lin-Manuel Miranda, gets release date”. Ew.com. ngày 31 tháng 5 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 31 tháng 5 năm 2016.
  75. ^ Gleiberman, Owen (ngày 12 tháng 12 năm 2018). “Film Review: 'Mary Poppins Returns'. Variety. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018.
  76. ^ “Golden Globe Nominations: Complete List”. Variety. ngày 6 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 12 năm 2018.
  77. ^ “SAG Award Nominations: Complete List”. Variety. ngày 12 tháng 12 năm 2018. Truy cập ngày 12 tháng 12 năm 2018.
  78. ^ Itzkoff, Dave (19 tháng 5 năm 2021). “John Krasinski and the Tense Wait for 'A Quiet Place Part II'. The New York Times. Bản gốc lưu trữ ngày 28 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 19 tháng 5 năm 2021.
  79. ^ “A Quiet Place Part II review – Emily Blunt horror is something to scream about”. the Guardian. 18 tháng 5 năm 2021. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 6 năm 2021. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2021.
  80. ^ Rubin, Rebecca (13 tháng 6 năm 2021). 'A Quiet Place 2' Is the First Movie to Surpass $100 Million at the U.S. Box Office in Pandemic Times”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 12 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2021.
  81. ^ Keene, Allison (30 tháng 1 năm 2018). “Emily Blunt Boards Disney's 'Jungle Cruise' with Dwayne Johnson”. Collider. Lưu trữ bản gốc ngày 30 tháng 1 năm 2018. Truy cập ngày 30 tháng 1 năm 2018.
  82. ^ D'Alessandro, Anthony (13 tháng 5 năm 2021). “Dwayne Johnson Movie 'Jungle Cruise' Hitting Theaters & Disney+ Premier This Summer”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 5 năm 2021. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2021.
  83. ^ Catsoulis, Jeannette (29 tháng 7 năm 2021). 'Jungle Cruise' Review: Amazon Subprime”. The New York Times. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 7 năm 2021. Truy cập ngày 31 tháng 8 năm 2021.
  84. ^ Sarrubba, Stefania (1 tháng 9 năm 2022). “Emily Blunt stars in first look trailer for BBC's The English”. Digital Spy. Lưu trữ bản gốc ngày 9 tháng 9 năm 2022. Truy cập ngày 9 tháng 9 năm 2022.
  85. ^ The English: Mùa 1”. Rotten Tomatoes. Fandango Media. Truy cập ngày 27 tháng 11 năm 2022.
  86. ^ “The English review – Emily Blunt's sweeping western is a rare, sensational masterpiece”. the Guardian. 10 tháng 11 năm 2022. Lưu trữ bản gốc ngày 14 tháng 11 năm 2022. Truy cập ngày 15 tháng 11 năm 2022.
  87. ^ Lewis, Hilary (11 tháng 1 năm 2023). “SAG Awards: 'The Banshees of Inisherin,' 'Everything Everywhere All at Once' Lead Nominations”. The Hollywood Reporter. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 1 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 1 năm 2023.
  88. ^ Couch, Aaron (20 tháng 10 năm 2021). “Emily Blunt Joining Christopher Nolan's 'Oppenheimer'. The Hollywood Reporter (bằng tiếng Anh). Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 10 năm 2021. Truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021.
  89. ^ Lang, Brent (20 tháng 7 năm 2022). “Inside Movie Stars' Salaries: Joaquin Phoenix Nabs $20M for Joker 2, Tom Cruise Heads to Over $100M and More”. Variety. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 7 năm 2022. Truy cập ngày 21 tháng 7 năm 2022.
  90. ^ “Emily Blunt: 'Women are still pressured to be warm and likable. Men are not'. The Guardian. 21 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2024.
  91. ^ Bentz, Adam (19 tháng 9 năm 2023). “Oppenheimer's Box Office Success Hailed By Denis Villeneuve & Paul Thomas Anderson”. Screen Rant. Lưu trữ bản gốc ngày 29 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2023.
  92. ^ “Oppenheimer First Reviews: Breathtaking, Ballsy, and One of the Best Biopics Ever Made”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2023.
  93. ^ “Kate Winslet, Emily Blunt and Olivia Colman movies headed to Toronto film festival”. The Guardian. 24 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2024.
  94. ^ “Oppenheimer's Emily Blunt Set to Play First Female Detective in Amazon Film”. Comic Book Resources. 19 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2024.
  95. ^ 'Oppenheimer' Review: Christopher Nolan Delivers His Most Colossal and Mature Film Yet”. Collider. 24 tháng 11 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2024.
  96. ^ Rooney, David (19 tháng 7 năm 2023). 'Oppenheimer' Review: Christopher Nolan's Epic Is a Scorching Depiction of America's Ability to Create and Destroy Its Heroes”. The Hollywood Reporter. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2024.
  97. ^ Jolin, Dan (19 tháng 7 năm 2023). “Oppenheimer Review”. Empire. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 7 năm 2023. Truy cập ngày 20 tháng 7 năm 2023.
  98. ^ Laffly, Tomris (19 tháng 7 năm 2023). 'Oppenheimer' Review: Christopher Nolan's Epic Is Brainy and Grand in All the Right Ways”. The Wrap. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2024.
  99. ^ Hipes, Patrick (11 tháng 12 năm 2023). “Golden Globe Nominations: 'Barbie', 'Oppenheimer' Top Movie List; 'Succession' Leads Way In TV”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 12 năm 2023. Truy cập ngày 11 tháng 12 năm 2023.
  100. ^ “Barbie, Oppenheimer lead 2024 SAG Awards nominations: See the full list”. Entertainment Weekly. 10 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 10 tháng 1 năm 2024.
  101. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên BAFTA search
  102. ^ “Oscar nominations 2024: The full List of nominees”. BBC. 23 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 23 tháng 1 năm 2024.
  103. ^ “Emily Blunt”. The Numbers. Lưu trữ bản gốc ngày 3 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 16 tháng 11 năm 2023.
  104. ^ Wiseman, Andreas (21 tháng 5 năm 2022). “Netflix Closing In On $50M+ WW Deal For Emily Blunt Package Pain Hustlers With David Yates Directing: Cannes Market Big Splash”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 5 năm 2022. Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2022.
  105. ^ “Pain Hustlers”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 9 năm 2023. Truy cập ngày 31 tháng 10 năm 2023.
  106. ^ Kroll, Justin (12 tháng 8 năm 2022). “Emily Blunt Joins Ryan Gosling In Universal's 'The Fall Guy' Movie; Studio Sets Release Date”. Deadline. Lưu trữ bản gốc ngày 2 tháng 2 năm 2023. Truy cập ngày 4 tháng 11 năm 2022.
  107. ^ Tartaglione, Nancy (27 tháng 4 năm 2023). “John Krasinski's IF Adds Voice Cast Including Matt Damon, Jon Stewart, Emily Blunt, Maya Rudolph, Awkwafina, Vince Vaughn – CinemaCon”. Deadline Hollywood. Lưu trữ bản gốc ngày 27 tháng 4 năm 2023. Truy cập ngày 27 tháng 4 năm 2023.
  108. ^ 'Black Adam' Director Boards Emily Blunt Movie About Pioneering Female Detective Kate Warne”. Variety. 19 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 13 tháng 1 năm 2024.
  109. ^ a b “Perfectly Blunt”. The Age. 30 tháng 12 năm 2007. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2024.
  110. ^ “Actress Emily Blunt is fishing for just the right roles”. Savannah Morning News. 8 tháng 3 năm 2012. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2024.
  111. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Elle 09
  112. ^ “Emily Blunt's Best Dramatic Movies, Ranked”. MovieWeb. 27 tháng 10 năm 2023. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2024.
  113. ^ a b 'The English' Proves Why Emily Blunt Is One of Today's Most Versatile Action Stars”. Collider. 7 tháng 12 năm 2022. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2024.
  114. ^ “Emily Blunt on Shaping Her Sicario Role, Remaining Normal, and Avoiding Social Media”. Vulture. 11 tháng 12 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 15 tháng 7 năm 2017. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2024.
  115. ^ “Emily Blunt”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 1 năm 2024. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2024.
  116. ^ Reception:[5][109][110][111][112][113][114][115]
  117. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Guardian 092
  118. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên NYT 092
  119. ^ “Emily Blunt: 'It's about human beings and how they're affected by a crisis'. The Guardian. 13 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2024.
  120. ^ “Versatile Emily Blunt steps into the timeless shoes of Mary Poppins”. Los Angeles Times. 21 tháng 11 năm 2018. Truy cập ngày 8 tháng 1 năm 2024.
  121. ^ "Gripped By The Throat": Why Sicario Is One Of Emily Blunt's Favorite Movie Roles”. Screen Rant. 5 tháng 8 năm 2023. Truy cập ngày 7 tháng 1 năm 2024.
  122. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên miller
  123. ^ “Emily Blunt: 'If Women Are Given a Voice, They Use It'. Variety. 13 tháng 4 năm 2018. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2024.
  124. ^ “How Emily Blunt Overcame a Childhood Stutter—and Helps Others Do the Same”. People. 4 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2024.
  125. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên Variety 232
  126. ^ “Staff and Board of Directors”. Bản gốc lưu trữ ngày 19 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 15 tháng 10 năm 2012.
  127. ^ “The moment Emily Blunt decided she was back on board for A Quiet Place's sequel”. Sydney Morning Herald. 14 tháng 3 năm 2020. Truy cập ngày 6 tháng 1 năm 2024.
  128. ^ Mascia, Kristen. “Emily Blunt and Michael Bublé Split”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011.
  129. ^ Oh, Eunice (ngày 28 tháng 8 năm 2009). “Emily Blunt & John Krasinski Are Engaged”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 13 tháng 10 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2012.
  130. ^ “Emily Blunt, John Krasinski Wed in Italy!”. Us Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 1 tháng 11 năm 2011.
  131. ^ Eggenberger, Nicole (ngày 16 tháng 2 năm 2014). “Emily Blunt Gives Birth, Welcomes Daughter Hazel With Husband John Krasinski”. Us Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 17 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2014.
  132. ^ “John Krasinski and Emily Blunt Welcome Daughter Hazel”. People. ngày 16 tháng 2 năm 2014. Lưu trữ bản gốc ngày 16 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016.
  133. ^ “John Krasinski on Twitter: "Wanted to let the news out directly. Emily and I are so incredibly happy to welcome our daughter Hazel into the world today! Happy bday!". Twitter. ngày 16 tháng 2 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 4 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016.
  134. ^ “John Krasinski on Twitter: "What better way to celebrate the 4th... than to announce our 4th family member!!! 2 weeks ago we met our beautiful daughter Violet #Happy4th". Twitter. ngày 4 tháng 7 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 8 năm 2016. Truy cập ngày 4 tháng 7 năm 2016.
  135. ^ “Emily Blunt, John Krasinski Welcome Baby Girl, Violet”. ngày 5 tháng 7 năm 2016. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016.
  136. ^ “Stanley Tucci Engaged To Emily Blunt's Sister Felicity!”. US Weekly. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 4 năm 2012. Truy cập ngày 16 tháng 4 năm 2012.
  137. ^ “Hunger Games Star Stanley Tucci Secretly Marries Emily Blunt's Sister, Felicity”. E Online. Truy cập ngày 24 tháng 8 năm 2012.
  138. ^ “Sebastian Blunt, actor”. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 2 năm 2014. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2012.
  139. ^ “Emily Blunt Becomes A U.s. Citizen”. Contactmusic.com. ngày 6 tháng 8 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 19 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 9 năm 2015.
  140. ^ Page, Janice (ngày 26 tháng 9 năm 2015). Emily Blunt, action hero. The Boston Globe. Lưu trữ bản gốc ngày 28 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2015.
  141. ^ “Emily Blunt – FHM”. FHM. ngày 30 tháng 4 năm 2015. Lưu trữ bản gốc ngày 18 tháng 5 năm 2016. Truy cập ngày 16 tháng 7 năm 2016.
  142. ^ “Emily Blunt Movie Box Office Results”. Box Office Mojo. Lưu trữ bản gốc ngày 26 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2018.
  143. ^ “Emily Blunt”. Rotten Tomatoes. Lưu trữ bản gốc ngày 31 tháng 5 năm 2018. Truy cập ngày 26 tháng 5 năm 2018.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Emily_Blunt