Wiki - KEONHACAI COPA

Dinornis

Dinornis
D. novaezealandiae, Natural History Museum of London
Tình trạng bảo tồn
Tuyệt chủng  (c.1500)
Phân loại khoa học
Giới (regnum)Animalia
Ngành (phylum)Chordata
Lớp (class)Aves
Liên bộ (superordo)Paleognathae
Bộ (ordo)Dinornithiformes
Họ (familia)Dinornithidae
Chi (genus)Dinornis
(Owen, 1843)[1]
Các loài

D. novaezealandiae North Island Giant Moa

D. robustus South Island Giant Moa
Danh pháp đồng nghĩa
  • Dinoris (lapsus)
  • Megalornis Owen, 1843 non Gray, 1841: preoccupied, nomen nudum
  • Moa Reichenbach, 1850
  • Movia Reichenbach, 1850
  • Owenia Gray, 1855
  • Palapteryx Owen, 1851
  • Tylopteryx Hutton, 1891

Dinornis (tạm gọi là Chim khổng lồ moa) là một chi chim tuyệt chủng thuộc họ moa. Giống như tất cả các loài họ Moa, nó là thành viên của bộ Dinornithiformes. Đây là loài đặc hữuNew Zealand. Hai loài được tính vào "Dinornis" gồm Dinornis novaezealandiae của đảo phía Bắc, và Dinornis robustus của vùng phía Nam. Ngoài ra, hai loài nữa (dòng giống mới A và dòng giống B) đã được đề xuất dựa trên các dòng DNA riêng biệt.[2]

Mô tả[sửa | sửa mã nguồn]

Bộ xương của D. robustus
Bộ xương của D. struthoides, hiện được biết đến là Dinornis đực, không phải là một loài riêng biệt

"Dinornis" có thể là loài chim cao nhất từng tồn tại, những con cái của loài lớn nhất cao đến 3,6 m (12 ft)[3] và là một trong những loài lớn nhất, nặng đến 230–240 kg (510–530 lb)[4] hay 278 kg (613 lb)[5] trong các ước tính khác nhau. Lông vũ có màu nâu đỏ giống với màu tóc bao phủ toàn cơ thể ngoại trừ phần chân dưới và phần lớn đầu (cộng với một phần nhỏ của cổ dưới đầu). Bàn chân to và mạnh, những con chim có cổ dài giúp cho chúng có thể với tới các thảm thực vật trên cao. Nối với cơ thể là đầu của nó nhỏ, mỏ nhọn, ngắn, phẳng và hơi cong.

Dị hình giới tính[sửa | sửa mã nguồn]

Từ lâu người ta đã nghi ngờ rằng một số loài moa lần lượt cấu thành giống đực và cái. Điều này đã được xác nhận bằng cách phân tích các dấu hiệu di truyền giới tính cụ thể của DNA được lấy từ mẫu xương.[6] Ví dụ, trước năm 2003 có ba loài "Dinornis" được công nhận: moa khổng lồ của đảo phía Nam ("D. robustus"), moa khổng lồ của đảo phía Bắc ("D. novaezealandiae") và moa mảnh ("D. struthioides"). Tuy nhiên, DNA cho thấy rằng tất cả "D. struthioides" đều là giống đực, và tất cả "D. robustus" đều là giống cái. Do đó, ba loài "Dinornis" được phân lại thành hai loài, mỗi loài xuất hiện trước đây trên Đảo Bắc New Zealand ("D. novaezealandiae") và Đảo Nam ("D. robustus");[6][7] Tuy nhiên "robustus", bao gồm ba dòng di truyền riêng biệt và thậm chí có thể được phân thành nhiều loài. "Dinornis" dường như đã có sự lưỡng hình sinh dục rõ rệt nhất trên tất cả các moa, với con cái lên đến 150% về chiều cao và 280% cân nặng như con đực.[8]

Phân loại[sửa | sửa mã nguồn]

Biểu đồ dưới đây theo một phân tích năm 2009 bởi Bunce "et al":[7]

Dinornithidae

Dinornis robustus

Dinornis novaezealandiae

Megalapteryidae

Megalapteryx didinus

Emeidae
 
 
 

Pachyornis australis

 

Pachyornis elephantopus

Pachyornis geranoides

 
 

Anomalopteryx didiformis

 

Emeus crassus

Euryapteryx curtus

Sự tuyệt chủng[sửa | sửa mã nguồn]

Trước khi có sự xuất hiện của loài người, loài moa khổng lồ có mật độ sinh thái ổn định ở New Zealand trong ít nhất 40.000 năm.[9] Loài moa khổng lồ, cùng với các loài moa khác, đã bị những người định cư Polynesian săn bắt hết[9] để làm thực phẩm. Tất cả các đơn vị phân loại trong loài này đã bị tuyệt chủng tính đến năm 1500 ở New Zealand. Người ta thường xác nhận rằng người Maori vẫn săn lùng chúng vào đầu thế kỷ XV, mặc dù một số giả thuyết cho rằng chúng đã tuyệt chủng vào giữa thế kỷ XIV.[10] Mặc dù một số loài chim lớn đã bị tuyệt chủng do canh tác, trong đó do rừng bị chặt, bị cháy và đất bị biến thành đất trồng trọt, nhưng loài moa khổng lồ đã tuyệt chủng 300 năm trước khi những người định cư châu Âu đến.[11]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

Specific citations
  1. ^ Checklist Committee Ornithological Society of New Zealand (2010). “Checklist-of-Birds of New Zealand, Norfolk and Macquarie Islands and the Ross Dependency, Antarctica” (PDF). Te Papa Press. Truy cập ngày 4 tháng 1 năm 2016.
  2. ^ Baker, A. J.; Huynen, L. J.; Haddrath, O.; Millar, C. D.; Lambert, D. M. (2005). “Reconstructing the tempo and mode of evolution in an extinct clade of birds with ancient DNA: The giant moas of New Zealand”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 102 (23): 8257–62. Bibcode:2005PNAS..102.8257B. doi:10.1073/pnas.0409435102. PMC 1149408. PMID 15928096.
  3. ^ Wood, Gerald (1983)
  4. ^ Amadon, D. (1947)
  5. ^ Campbell Jr., K. & Marcus, L. (1992)
  6. ^ a b Huynen, L. J.,et al. (2003)
  7. ^ a b Bunce, M.; Worthy, T. H.; Phillips, M. J.; Holdaway, R. N.; Willerslev, E.; Haile, J.; Shapiro, B.; Scofield, R. P.; Drummond, A.; Kamp, P. J. J.; Cooper, A. (2009). “The evolutionary history of the extinct ratite moa and New Zealand Neogene paleogeography”. Proceedings of the National Academy of Sciences. 106 (49): 20646–51. Bibcode:2009PNAS..10620646B. doi:10.1073/pnas.0906660106. PMC 2791642. PMID 19923428.
  8. ^ Bunce (2003)
  9. ^ a b “Giant Moa Had Climate Change Figured out”. ScienceDaily. ngày 3 tháng 8 năm 2012. Truy cập ngày 6 tháng 8 năm 2012.
  10. ^ Holdaway, R. N.; Jacomb, C. (2000). “Rapid Extinction of the Moas (Aves: Dinornithiformes): Model, Test, and Implications”. Science. 287 (5461): 2250–2254. Bibcode:2000Sci...287.2250H. doi:10.1126/science.287.5461.2250. PMID 10731144.
  11. ^ Perry, G. L.; Wheeler, A. B.; Wood, J. R.; Wilmshurst, J. M. (2014). “A high-precision chronology for the rapid extinction of New Zealand moa (Aves, Dinornithiformes)”. Quaternary Science Reviews. 105: 126–135. Bibcode:2014QSRv..105..126P. doi:10.1016/j.quascirev.2014.09.025.
General references
Amadon, D. (1947). “An estimated weight of the largest known bird”. Condor. 49 (4): 159–164. doi:10.2307/1364110. JSTOR 1364110.
Baker, Allan J.; Huynen, Leon J.; Haddrath, Oliver; Millar, Craig D.; Lambert, David M. (2005). “Reconstructing the tempo and mode of evolution in an extinct clade of birds with ancient DNA: The giant moas of New Zealand” (PDF). Proceedings of the National Academy of Sciences. 102 (23): 8257–8262. Bibcode:2005PNAS..102.8257B. doi:10.1073/pnas.0409435102. PMC 1149408. PMID 15928096. Truy cập ngày 14 tháng 2 năm 2011. Chú thích có tham số trống không rõ: |day= (trợ giúp)
Benes, Josef (1979). Prehistoric Animals and Plants. Luân Đôn, UK: Hamlyn. tr. 191. ISBN 978-0-600-30341-1. Chú thích có tham số trống không rõ: |separator= (trợ giúp)
Bunce, Michael; Worthy, Trevor H.; Ford, Tom; Hoppitt, Will; Willerslev, Eske; Drummond, Alexei; Cooper, Alan (2003). “Extreme reversed sexual size dimorphism in the extinct New Zealand moa Dinornis”. Nature. 425 (6954): 172–175. Bibcode:2003Natur.425..172B. doi:10.1038/nature01871. PMID 12968178. Chú thích có tham số trống không rõ: |day= (trợ giúp)
Campbell, Jr., K. E.; Marcus, L. (1992). “The relationship of hindlimb bone dimensions to body weight in birds”. Papers in Avian Paleontology Honoring Pierce Brodkorb. Science (36): 395–412.
Huynen, Leon J.; Millar, Craig D.; Scofield, R. P.; Lambert, David M. (2003). “Nuclear DNA sequences detect species limits in ancient moa”. Nature. 425 (6954): 175–178. Bibcode:2003Natur.425..175H. doi:10.1038/nature01838. PMID 12968179. Chú thích có tham số trống không rõ: |day= (trợ giúp)
Owen, Richard (1843). “On the remains of Dinornis, an extinct gigantic struthious bird”. Proceedings of the Zoological Society of London: 8–10, 144–146. Chú thích có tham số trống không rõ: |day= (trợ giúp)
Wood, Gerald (1983). The Guinness Book of Animal Facts and Feats (ấn bản 3). Sterling Publishing Company Inc. ISBN 978-0-85112-235-9.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Dinornis