Wiki - KEONHACAI COPA

Destiny Fulfilled ... And Lovin' It

Destiny Fulfilled... And Lovin' It Tour
[[file:|frameless|upright|alt=]]
Áp phích của tour lưu diễn khi nhóm dừng chân tại Dubai
Chuyến lưu diễn của Destiny's Child
AlbumDestiny Fulfilled
Ngày bắt đầu9 tháng 4 năm 2005
Ngày kết thúc10 tháng 9 năm 2005
Số chặng diễn3
Số buổi diễn6 tại Nhật Bản
4 tại Úc
1 tại Trung Đông
20 tại Châu Âu
36 tại Bắc Mỹ
67 tổng cộng
Thứ tự chuyến lưu diễn của Destiny's Child
Destiny's Child World Tour
(2002)
Destiny Fulfilled... and Lovin' It Tour
(2005)

Destiny Fulfilled... And Lovin' It Tour (tạm dịch: Tour diễn Số Mệnh Hoàn Tất... Và Hãy Yêu Nó) là một tour lưu diễn thế giới được thực hiện bởi nhóm nhạc nữ người Mỹ Destiny's Child. Tour diễn đã được thực hiện tại 16 quốc gia khác nhau, trong đó có Úc, Nhật Bản, Trung Đông, Châu Âu, và Nam Mỹ với tổng cộng 67 buổi diễn. Theo tạp chí Billboard, tính riêng tại Mỹ, nhóm đã đạt doanh thu khoảng $70.8 triệu đô-la và trở thành tour diễn của một nhóm nhạc pop hay R&B có doanh thu cao nhất, kể từ FanMail Tour của nhóm TLC.

Thực hiện[sửa | sửa mã nguồn]

Nhóm Destiny's Child đang trình diễn ca khúc "Say My Name" trong tour lưu diễn

Tour diễn đã bắt đầu tại Hiroshima, Nhật Bản vào ngày 9 tháng 4 năm 2005 và kết thúc tại Vancouver, Canada vào ngày 10 tháng Chín.

Trong suốt quá trình thực hiện, Destiny's Child đã được tài trợ bởi hãng thức ăn nhanh McDonald's Corporation, và họ đã trình diễn những đĩa đơn quán quân của mình như "No, No, No", "Survivor", "Say My Name", "Independent Women" và "Lose My Breath". Ngoài ra, nhóm còn trình diễn solo với những ca khúc mà họ đã phát hành vào năm 2002-2003 khi lập nên kế hoạch phát hành album đầu tay của mình, đáng chú ý nhất là phần trình diễn của Beyoncé Knowles với ca khúc thành công Dangerously in Love. Sân khấu được thiết kế 360 độ vì thế khán giả ở mọi góc độ đều có thể thấy rõ màn hình. Xen kẽ những mà trình diễn là những tiết mục vũ đạo nhỏ của những vũ công trong khi nhóm đang thay trang phục; những trang phục này thường được thiết kế với họa tiết lấp lánh và được thiết kế bởi Tina Knowles, mẹ của Beyoncé, cùng nhãn hiệu House of Deréon. Một phần trình diễn đặc biệt, nhóm đã trình diễn ca khúc "One Night Only (Disco)" với phần phục trang ba màu (Beyoncé trong màu vàng, Kelly trong màu đỏ, Michelle trong màu tím) để tưởng nhớ đến vở kịch Broadway Dreamgirls.

Ngoài ra, tại Bắc Mỹ còn kèm theo nhiều phần trình diễn ủng hộ là Amerie, Mario, và Tyra Bolling.[1]

Tuyên bố tan rã[sửa | sửa mã nguồn]

Thành viên Beyoncé đang trình bày ca khúc Dangerously in Love tại Atlanta

Vào ngày 11 tháng 6 năm 2004, tại buổi diễn ở Palau Sant Jordi tại Barcelona, Tây Ban Nha, Kelly Rowland đã công bố trước 16,000 khán giả họ sẽ chính thức tan rã khi phát biểu: "Đây chính là lần cuối cùng bạn nhìn thấy Destiny's Child trên sân khấu".[2] Nhưng Destiny's Child vẫn cho rằng cái tên Destiny Fulfilled (Tạm dịch: Sứ mệnh Hoàn tất) là một sự trùng hợp.[3] Trong khi thực hiện album, họ đã có ý định rằng đây chính câu chuyện 14 năm hoạt động của nhóm, và nay các thành đang đi theo những con đường của riêng mình. Knowles đã phát biểu rằng sứ mệnh của họ đã sẵn sàng để hoàn tất.[3] Nhóm đã gửi một lá thư đến kênh MTV và nói về sự tan rã:

Chúng tôi đã làm việc cùng nhau từ lúc 9 tuổi, và cùng nhau đi lưu diễn lúc 14 tuổi. Sau một hồi trò chuyện thận mật, chúng tôi đã nhận ra rằng tour diễn gần đây đã cho nhóm cơ hội để rời xa Destiny's Child trên đỉnh cao của sự nghiệp, với tình bạn kèm theo sự biết ơn đến âm nhạc của chúng tôi, người hâm mộ của chúng tôi và nhiều thứ khác nữa. Sau những năm tuyệt vời làm việc cùng nhau, chúng tôi đã nhận ra rằng đây chính là thời điểm mà chúng tôi phải tự lực đi theo con đường solo thật nghiêm túc...Dù có chuyện gì xảy ra, chúng tôi sẽ luôn yêu quý nhau như những người bạn, như chị em và luôn ủng hộ nhau như những người nghệ sĩ thực thụ. Chúng tôi muốn cảm ơn những người hâm mộ của vì tình yêu và sự ủng hộ vĩ đại của họ, nhóm mong sẽ gặp tất cả các bạn khi chúng tôi đang hoàn tất sứ mệnh của mình.
—Destiny's Child, MTV[2]

Đánh giá chuyên môn[sửa | sửa mã nguồn]

Teen Music đã nhận xét buổi diễn của nhóm "là một chương trình cho tất cả năm giác quan."[4]

Danh sách ca khúc[sửa | sửa mã nguồn]

  1. "Say My Name"
  2. "Independent Women Part I"
  3. "No, No, No Part 2"
  4. "Bug A Boo"
  5. "Bills, Bills, Bills"
  6. "Bootylicious"
  7. "Jumpin' Jumpin'"
  • Phần giới thiệu The Definition of a Soldier - Phần nhảy của Vũ công nam
  1. "Soldier"
  • Đoạn nhạc mở đầu của Dilemma
  1. "Dilemma" (phần hát của Kelly)
  2. "Do You Know" (phần hát của Michelle)
  3. "Baby Boy" (phần hát của Beyoncé)
  4. "Naughty Girl" (phần hát của Beyoncé)
  • Thay phục trang
  1. "Cater 2 U"
  • Phần giới thiệu Girl Talk
  1. "Girl"
  2. "Free"
  3. "If"
  4. "Through With Love"
  • Beyoncé & Michelle thay phục trang
  1. "Bad Habit" (phần hát của Kelly)
  • Kelly thay phục trang
  1. "Dangerously In Love" (phần hát của Beyoncé)
  2. "Crazy in Love" (phần hát của Beyoncé)
  1. "Survivor"
  • Thay phục trang
  1. "Lose My Breath"

Phát sóng và ghi hình[sửa | sửa mã nguồn]

Destiny's Child: Live in Atlanta sau đó đã được phát hành với màn trình diễn của nhóm được quay tại AtlantaPhilips Arena vào ngày 15 tháng 7 năm 2005 và được phát hành vào ngày 28 tháng 3 năm 2006. Hiệp hội RIAA đã trao tặng cho DVD đĩa Bạch kim.

Buổi diễn sau đó cũng đã được kênh BET trình chiếu đặc biệt tại Mỹ, trên kênh 4 tại Anh và kênh ẠT tại Hà Lan.

Lịch diễn[sửa | sửa mã nguồn]

NgàyThành phốQuốc giaĐịa điểm
Châu Á
9 tháng 4 năm 2005HiroshimaNhật BảnHiroshima Sun Plaza
11 tháng 4 năm 2005OsakaHội trường Osaka-jō
12 tháng 4 năm 2005NagoyaNagoya Rainbow Hall
14 tháng 4 năm 2005TokyoNippon Budokan
15 tháng 4 năm 2005
16 tháng 4 năm 2005YokohamaYokohama Arena
Úc
27 tháng 4 năm 2005BrisbaneÚcBrisbane Entertainment Centre
28 tháng 4 năm 2005SydneySydney Super Dome
29 tháng 4 năm 2005AdelaideAdelaide Entertainment Centre
30 tháng 4 năm 2005MelbourneRod Laver Arena
Trung Đông
12 tháng 5 năm 2005DubaiUAEDubai Media City
Châu Âu
14 tháng 5 năm 2005Saint-Jean-Cap-FerratPhápMột bữa tiệc Cá nhân
15 tháng 5 năm 2005OsloNa UyOslo Spectrum
17 tháng 5 năm 2005StockholmThụy ĐiểnGloben
19 tháng 5 năm 2005HamburgĐứcColorline Arena
21 tháng 5 năm 2005StuttgartSchleyerhalle
22 tháng 5 năm 2005HasseltBỉEthias Arena
23 tháng 5 năm 2005RotterdamHà LanAhoy' Rotterdam
24 tháng 5 năm 2005
26 tháng 5 năm 2005MilanÝFilaforum
27 tháng 5 năm 2006GenevaThụy SĩSEG Geneva Arena
28 tháng 5 năm 2005ParisPhápCung thể thao Paris-Bercy
30 tháng 5 năm 2005FrankfurtĐứcFesthalle
31 tháng 5 năm 2005KölnKölnarena
2 tháng 6 năm 2005LondonAnhEarls Court Exhibition Centre
3 tháng 6 năm 2005
5 tháng 6 năm 2005BirminghamNational Indoor Arena
6 tháng 6 năm 2005ManchesterMEN Arena
7 tháng 6 năm 2005SheffieldHallam FM Arena
9 tháng 6 năm 2005DublinIrelandLansdowne Road
11 tháng 6 năm 2005BarcelonaTây Ban NhaPalau Sant Jordi
Bắc Mỹ
2 tháng 7 năm 2005New OrleansMỹLouisiana Superdome
9 tháng 7 năm 2005St. LouisSavvis Center
10 tháng 7 năm 2005MemphisFedExForum
12 tháng 7 năm 2005NashvilleGaylord Entertainment Center
15 tháng 7 năm 2005AtlantaPhilips Arena
16 tháng 7 năm 2005TampaSt. Pete Times Forum
20 tháng 7 năm 2005PittsburghMellon Arena
22 tháng 7 năm 2005CharlotteVerizon Amphitheatre
23 tháng 7 năm 2005Virginia BeachVerizon Amphitheatre
24 tháng 7 năm 2005RaleighAlltel Pavilion at Walnut Creek
28 tháng 7 năm 2005AlbanyPepsi Arena
29 tháng 7 năm 2005New York CityMadison Square Garden
30 tháng 7 năm 2005UniondaleNassau Coliseum
31 tháng 7 năm 2005Washington, D.C.MCI Center
3 tháng 8 năm 2005UncasvilleMohegan Sun Arena
5 tháng 8 năm 2005PhiladelphiaWachovia Center
6 tháng 8 năm 2005BostonTD Banknorth Garden
7 tháng 8 năm 2005HersheyHersheypark Stadium
9 tháng 8 năm 2005MontrealCanadaBell Centre
10 tháng 8 năm 2005TorontoAir Canada Centre
12 tháng 8 năm 2005ClevelandHoa KỳGund Arena
13 tháng 8 năm 2005Columbus, OHNationwide Arena
14 tháng 8 năm 2005Auburn HillsThe Palace of Auburn Hills
15 tháng 8 năm 2005ChicagoCharter One Pavilion
19 tháng 8 năm 2005San AntonioSBC Center
20 tháng 8 năm 2005HoustonTrung tâm Toyota
21 tháng 8 năm 2005DallasTrung tâm American Airlines
23 tháng 8 năm 2005DenverPepsi Center
26 tháng 8 năm 2005Las VegasMandalay Bay Events Center
27 tháng 8 năm 2005PhoenixAmerica West Arena
28 tháng 8 năm 2005AlbuquerqueJournal Pavilion
1 tháng 9 năm 2005AnaheimArrowhead Pond
2 tháng 9 năm 2005Los AngelesTrung tâm Staples
3 tháng 9 năm 2005OaklandOakland Arena
4 tháng 9 năm 2005RenoReno Events Center
7 tháng 9 năm 2005SpokaneSpokane Arena
9 tháng 9 năm 2005SeattleKeyArena
10 tháng 9 năm 2005VancouverCanadaGM Place

Chương trình ngày 2 tháng Bảy tại New Orleans là một phần của Essence Music Festival

Thực hiện[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Destiny's Child North American Tour Dates Announced. Lưu trữ 2016-04-11 tại Wayback Machine The Free Library. Destiny's Child North American Tour Dates Announced.
  2. ^ a b Kaufman, Gil (ngày 12 tháng 6 năm 2005). “Destiny's Child Announce Split”. MTV News. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2008.
  3. ^ a b Vineyard, Jennifer (ngày 23 tháng 6 năm 2005). “Destiny's Child Talk Split: 'It's Not The End'. MTV News. Truy cập ngày 13 tháng 5 năm 2008.
  4. ^ Concert Review: 'Destiny Fulfilled' with Mario Lưu trữ 2008-02-14 tại Wayback Machine. Teen Music. 14 tháng 7 năm 2005.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Destiny_Fulfilled_..._And_Lovin%27_It