Wiki - KEONHACAI COPA

Cờ tướng

Cờ tướng

Bàn cờ tướng lúc bắt đầu với 32 quân
Số người chơi2 hoặc đại diện 1 nhóm
Độ tuổi>6
Thời gian chuẩn bị< 2 phút
Thời gian chơiTùy điều lệ của giải đấu, thường là 25 phút mỗi bên
May rủi ngẫu nhiênKhông
Kỹ năngChiến thuật, Chiến lược
Bộ môn yêu cầu suy nghĩ cao.

Cờ tướng hay Cờ tướng Trung Quốc (chữ Hán:棋将; tiếng Trung: 象棋; bính âm: xiàngqí; Wade–Giles: Hsiang ch'i, âm Hán-Việt: Tượng kỳ, tiếng Anh: Chinese Chess hoặc Xiangqi), là một trò chơi trí tuệ đối kháng dành cho hai người có nguồn gốc từ Trung Hoa. Đây là loại cờ phổ biến tại các nước như Trung Quốc đại lục, Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan, Singapore, MalaysiaViệt Nam nằm trong cùng một thể loại cờ với cờ vua, shogi, janggi, makruk,...

Trò chơi này mô phỏng cuộc chiến giữa hai quốc gia, với mục tiêu là bắt được Tướng của đối phương. Các đặc điểm khác biệt của cờ tướng so với các trò chơi cùng họ là: các quân đặt ở giao điểm các đường thay vì đặt vào ô, quân Pháo phải nhảy qua 1 quân khi ăn quân, các khái niệm sông và cung nhằm giới hạn các quân Tướng, Sĩ và Tượng. Cờ tướng với phiên bản hiện đại mà chúng ta biết ngày nay có từ thời Nam Tống.

Giới thiệu[sửa | sửa mã nguồn]

Bàn cờ tướng

Mục đích của ván cờ[sửa | sửa mã nguồn]

Ván cờ được tiến hành giữa hai người, một người cầm quân Đỏ đi trước, một người cầm quân Đen (hoặc Xanh lam hoặc Xanh lục hoặc Trắng) đi sau. Mục đích của mỗi người là tìm mọi cách đi quân trên bàn cờ theo đúng luật để chiếu bí hay bắt Tướng (hay Soái) của đối phương.

Bàn cờ và quân cờ[sửa | sửa mã nguồn]

Bàn cờ là hình chữ nhật do 9 đường dọc và 10 đường ngang cắt nhau vuông góc tại 90 điểm hợp thành. Một khoảng trống gọi là sông nằm ngang giữa bàn cờ, chia bàn cờ thành hai phần đối xứng bằng nhau. Mỗi bên có một Cửu cung hình vuông do 4 ô hợp thành tại các đường dọc 4, 5, 6 kể từ đường ngang cuối của mỗi bên, trong 4 ô này có vẽ hai đường chéo nhằm hạn chế nước đi của các quân Tướng (hay Soái) và Sĩ.

Theo quy ước, khi bàn cờ được quan sát chính diện, phía dưới sẽ là quân Đỏ, phía trên sẽ là quân Đen (Xanh lam hoặc Xanh lục hoặc Trắng). Các đường dọc bên Đỏ được đánh số từ 1 đến 9 từ phải qua trái. Các đường dọc bên Đen (Xanh lam hoặc Xanh lục hoặc Trắng) được đánh số từ 9 tới 1 từ phải qua trái.

Mỗi ván cờ lúc bắt đầu phải có 32 quân cờ chia đều cho mỗi bên gồm 16 quân Đỏ và 16 quân Đen (Xanh lam hoặc Xanh lục hoặc Trắng), gồm bảy loại quân. Tuy tên quân cờ của mỗi bên có thể viết khác nhau (ký hiệu theo chữ Hán) nhưng giá trị và cách đi quân của chúng lại giống nhau hoàn toàn. bảy loại quân có ký hiệu và số lượng cho mỗi bên như sau:

QuânKý hiệuSố lượngGiá trị
Tướng (Soái)Tướng(hoặc Soái)1
Sĩ22
Tượng (Tịnh, Bồ)Tượng22
XeXe29
PháoPháo24.5
Mã24
Tốt (Chốt, Binh)Tốt (hoặc Binh)51 (chưa qua sông),
2 (đã qua sông)

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Các loại cờ cổ theo kiểu mô phỏng chiến trận và chiến thuật đã có tại Trung Hoa vào thời Chiến Quốc. Theo Murray thì một trò chơi có tên gọi "tượng kỳ" đã được đề cập đến ở thời Chiến Quốc; theo tài liệu ở thế kỷ I TCN có tên Thuyết Uyển (說苑), đây là một thú vui của Mạnh Thường Quân. Tuy nhiên không thấy mô tả luật của trò chơi này và cũng không có gì đảm bảo nó có quan hệ với cờ tướng hiện đại[1]. Bắc Chu Vũ Đế viết một cuốn sách vào năm 569 có tên Tượng kinh. Cuốn sách đó mô tả luật của một trò chơi dựa trên thiên văn học có tên tượng kỳ hoặc tượng hí (象戲).

Vì những lý do đó, Murray đưa ra giả thuyết "tại Trung Quốc [cờ tướng] đã chiếm lấy bàn cờ và tên gọi một trò chơi có tên tượng kỳ với nghĩa là 'trò chơi thiên văn học', đại diện cho những chuyển động rõ ràng của các vật thể thiên văn học có thể nhìn được bằng mắt trần trên bầu trời đêm và những tài liệu Trung Quốc cổ xưa đề cập đến tượng kỳ với nghĩa trò chơi thiên văn học chứ không phải cờ tướng". Tuy nhiên, sự liên hệ giữa tượngthiên văn học không thật sự đáng kể và sự nảy sinh việc các chòm sao được gọi là "hình tượng" trong ngữ cảnh thiên văn học cũng ít có khả năng hơn; cách sử dụng này có thể khiến một số tác giả Trung Hoa cổ đưa ra giả thuyết rằng tượng kỳ băt đầu là mô phỏng của thiên văn học.[cần dẫn nguồn]

Những quân cờ tướng từ thời nhà Tống

Để củng cố cho luận điểm của mình, Murray dẫn ra một nguồn Trung Hoa cổ nói rằng trong cờ tướng cổ (cờ tướng hiện đại có thể đã sử dụng một số luật của nó) những quân cờ có thể xáo trộn được. Đặc điểm này không có ở cờ tướng hiện đại[2]. Murray cũng viết rằng Trung Hoa cổ có nhiều hơn một trò chơi với tên tượng kỳ.[3]

Theo một giả thuyết khác, sự phát triển của cờ tướng được bắt nguồn từ Saturanga[cần dẫn nguồn], một loại cờ cổ được phát minh ở Ấn Độ từ thế kỷ V đến thế kỷ VI (trước cờ tướng khoảng 200 năm). Saturanga được phát minh từ Ấn Độ, sau đó đi về phía Tây, trở thành cờ vua và đi về phía Đông trở thành cờ tướng. Loại cờ hiện đại có từ khoảng thế kỷ VII ở Trung Quốc.

Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo và sông. Các nhà nghiên cứu đều thống nhất là quân Pháo được bổ sung từ cuối thời nhà Đường và hoàn thiện như ngày hôm nay vào thời nhà Tống bởi cho tới thời đó, con người mới tìm ra vũ khí pháo để sử dụng trong chiến tranh.[cần dẫn nguồn]

Tuy nhiên, người Trung Hoa đã cải tiến bàn cờ Saturanga như sau[cần dẫn nguồn]:

  • Họ không dùng "ô", không dùng hai màu để phân biệt ô, mà họ chuyển sang dùng "đường" để đặt quân và đi quân. Chỉ với động tác này, họ đã tăng thêm số điểm đi quân từ 64 của Saturanga lên 81.
  • Đã là hai quốc gia đối kháng thì phải có biên giới rõ ràng, từ đó, họ đặt ra "hà", tức là sông. Khi "hà" xuất hiện trên bàn cờ, 9 điểm đặt quân nữa được tăng thêm. Như vậy, bàn cờ tướng bây giờ đã là 90 điểm so với 64, đó là một sự mở rộng đáng kể. Tuy nhiên, diện tích chung của bàn cờ hầu như không tăng mấy (chỉ tăng thêm 8 ô) so với số điểm tăng lên tới một phần ba.
  • Đã là quốc gia thì phải có cung cấm (宮) và không thể đi khắp bàn cờ như kiểu Saturanga được. Thế là "Cửu cung" đã được tạo ra. Điều này thể hiện tư duy phương Đông hết sức rõ ràng.
  • Bàn cờ Saturanga có hình dáng quân cờ là những hình khối, nhưng cờ Tướng thì quân nào trông cũng giống quân nào, chỉ có mỗi tên là khác nhau, lại được viết bằng chữ Hán. Đây có thể là lý do khiến cờ tướng không được phổ biến bằng cờ vua, chỉ cần liếc qua là có thể nhận ra đâu là Vua, đâu là Hoàng hậu, kỵ sĩ, v.v. Tuy nhiên, đối với người Trung Hoa thì việc thuộc mặt cờ này là không có vấn đề gì khó khăn. Gần đây ngày càng có nhiều ý kiến đề nghị cải cách hình dáng các quân cờ tướng và trên thực tế người ta đã đưa những phác thảo của những bộ quân mới bằng hình tượng thay cho chữ viết, nhất là khi cờ tướng được chơi ở những nước không sử dụng tiếng Trung.
  • Với sự thay đổi bố cục bàn cờ, người Trung Hoa đã phải có những điều chỉnh để lấy lại sự cân bằng cho bàn cờ. Đó chính là những ngoại lệ mà người chơi phải tự nhớ. (Xem thêm phần Mã, Tướng).

Xuất xứ tên gọi[sửa | sửa mã nguồn]

Người Trung Hoa đặt tên cho cờ này là Tượng kỳ (象棋) với ý nghĩa cờ hình tượng (theo chữ Hán) chứ không phải vì có quân tượng (voi) trên bàn cờ. Cũng có một số tài liệu lý giải rằng, vì Trung Hoa trước thời nhà Nguyên (1271-1368)... thì không có voi, khi họ tiếp nhận Saturanga thấy trong các quân cờ có quân voi lạ nên người Trung Hoa bèn gọi là "tượng kỳ" để kỷ niệm một loại cờ lạ có con voi. Như thế có người suy ra "tượng kỳ" có nghĩa là cờ voi.

Trong tiếng Việt, từ trước tới nay trò chơi này được gọi là cờ tướng do trong bàn cờ quân Tướng là quan trọng nhất.

Chơi cờ tại Seattle, Hoa Kỳ
Một thanh niên người Mỹ gốc Việt chơi cờ tướng trên một bàn cờ khổng lồ tại hội chợ TếtOrange County, California, Hoa Kỳ

Các quân cờ[sửa | sửa mã nguồn]

Tướng/Soái (帥/將)[sửa | sửa mã nguồn]

Tướng

Quân Tướng đi từng ô một, đi ngang hoặc dọc và luôn luôn ở trong phạm vi cung, không được ra ngoài. Tuy nhiên trong nhiều tình huống, đặc biệt khi cờ tàn đòn "lộ mặt tướng" lại tỏ ra rất mạnh (Tướng có thể ăn Tướng đối phương nếu Tướng đối phương để lộ mặt).

Tướng được chốt chặt trong cung và có tới 2 Sĩ và Tượng canh gác hai bên.

Sĩ (仕/士)[sửa | sửa mã nguồn]

Quân Sĩ đi chéo 1 ô mỗi nước và luôn luôn phải ở trong cung. Như vậy, quân Sĩ có 5 giao điểm có thể đứng hợp lệ và là quân cờ yếu nhất.

Sĩ có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ Tướng, mất Sĩ sẽ là nguy hiểm khi đối phương còn đủ 2 Xe. Người biết chơi thường hay dùng 1 Pháo đổi 2 Sĩ rồi dùng 2 Xe hoặc Xe kết hợp với Mã, Tốt để tấn công là đòn chiến thuật thường thấy. Khi cờ tàn còn Pháo thì phải chú ý bảo vệ Sĩ vì Sĩ còn được dùng để làm ngòi cho Pháo tấn công.

Tượng/Tịnh (相/象)[sửa | sửa mã nguồn]

Tượng

Quân Tượng đi chéo đúng 2 ô mỗi nước và không được phép đi qua sông. Vì vậy, trên bàn cờ mỗi bên có 7 vị trí mà quân Tượng có thể đi được. Tượng sẽ không thể đi được nếu có một quân cờ nằm giữa nước đi của Tượng, khi đó gọi là Tượng bị cản và vị trí cản được gọi là "mắt Tượng". Tượng có vai trò bảo vệ Tướng từ xa, mất Tượng sẽ là nguy hiểm khi đối phương còn đủ 2 Pháo. Người biết chơi thường hay dùng 1 Mã đổi 2 Tượng rồi dùng 2 Pháo hoặc Pháo kết hợp với Xe, Tốt để tấn công cũng là đòn chiến thuật thường thấy. Khả năng phòng thủ của Tượng nhỉnh hơn Sĩ.

Xe/Xa (俥/車)[sửa | sửa mã nguồn]

Xe
Xe

Quân Xe đi ngang hoặc dọc trên bàn cờ và không được phép nhảy qua đầu các quân khác. Xe được coi là quân cờ mạnh nhất. Giá trị của Xe thường tính là bằng 2 Pháo hoặc Pháo Mã.

Khai cuộc hai bên thường tranh thủ đưa các quân Xe ra các đường dọc thông thoáng, dễ phòng thủ và tấn công.

Pháo (炮/砲)[sửa | sửa mã nguồn]

Pháo
Nước ăn quân hợp lệ của Pháo

Quân Pháo đi ngang và dọc giống như Xe. Điểm khác biệt là Pháo muốn ăn quân thì nó phải nhảy qua đúng 1 quân nào đó (gọi là ngòi). Trừ trường hợp trên, Pháo cũng không được phép nhảy qua đầu các quân khác khi không ăn.

Cờ tướng cổ đại không có quân Pháo. Các nhà nghiên cứu đều nhất trí là quân Pháo được bổ sung từ cuối thời nhà Đường. Đây là quân cờ ra đời muộn nhất trên bàn cờ tướng vì tới thời đó, pháo được sử dụng trong chiến tranh với hình thức là máy bắn đá. Bấy giờ, từ Pháo (砲) trong chữ Hán được viết với bộ "thạch", nghĩa là đá. Cho đến đời nhà Tống, khi loại pháo mới mang thuốc nổ được phát minh thì từ Pháo (炮) được viết với bộ "hỏa". Hiện nay, có nhiều bộ cờ tướng thiết kế quân Pháo không có bộ "thạch" hoặc bộ "hỏa" (包).

Do đặc điểm phải có ngòi khi tấn công, Pháo thường dùng Tốt của quân mình để tấn công trong khai cuộc, hoặc dùng chính Sĩ hay Tượng của mình làm ngòi để chiếu hết tướng đối phương trong tàn cuộc.

Trên thực tế thì có tới 70% khai cuộc là dùng Pháo đưa vào giữa dọa bắt tốt đầu của đối phương, gọi là thế Pháo đầu hay Trung pháo. Đối phương có thể dùng Pháo đối lại cũng vào giữa. Nếu bên đi sau đưa Pháo cùng bên với bên đi trước thì khai cuộc gọi là trận Thuận Pháo, đi Pháo vào ngược bên nhau gọi là trận Nghịch Pháo (hay Liệt Pháo).

Nước đi và nước cản của Mã

Mã (傌/馬)[sửa | sửa mã nguồn]

Quân Mã đi ngang (hay dọc) 1 ô và chéo (theo cùng hướng đi trước đó) 1 ô. Nếu có quân cờ nào đó nằm ngay trên đường đi thì Mã bị cản, không được đi đường đó.

Mã do không đi thẳng, lại có thể bị cản nên mức độ cơ động của quân này kém hơn Xe và Pháo. Khi khai cuộc, Mã kém hơn Pháo. Khi tàn cuộc, Mã trở nên mạnh hơn Pháo.

Tốt/Binh (兵/卒)[sửa | sửa mã nguồn]

Tốt
Tốt

Quân Tốt đi 1 bước. Nếu Tốt chưa qua sông, nó chỉ được đi thẳng. Nếu Tốt đã qua sông thì được đi ngang hoặc thẳng, không được đi lùi. Khi đi đến đường biên ngang cuối cùng bên phần sân đối phương, lúc này, chúng được gọi là Tốt lụt, và chỉ có thể đi ngang theo hàng ngang đó 1 bước.

Trong khai cuộc, việc thí Tốt là chuyện tương đối phổ biến. Ngoại trừ việc phải bảo vệ Tốt đầu, các quân Tốt khác thường xuyên bị xe pháo mã ăn mất. Việc mất mát một vài Tốt ngay từ đầu cũng được xem như việc thí quân. Đến cờ tàn, giá trị của Tốt tăng nhanh và số lượng Tốt khi đó có thể đem lại thắng lợi hoặc chỉ hòa cờ. Khi đó việc đưa được Tốt qua sông và tới gần cung Tướng của đối phương trở nên rất quan trọng. Tốt khi đến tuyến áp đáy, ép sát cung Tướng thì Tốt mạnh như Xe.

Các luật khác[sửa | sửa mã nguồn]

  • Lộ mặt Tướng: Hai quân Tướng không được đối mặt nhau trên cùng một cột. Luôn luôn phải có ít nhất một quân nào đó nằm ở giữa để che mặt. Nước đi để hai Tướng đối mặt là không hợp lệ và bị xem như phạm lỗi kỹ thuật.
  • An toàn của Tướng: Tướng không được phép di chuyển tới các ô mà đối phương đang có quyền kiểm soát hoặc ăn quân có bảo vệ của đối phương. Nước đi để Tướng bị ăn mất trong nước tiếp theo là không hợp lệ.
  • Mã bị cản theo đường thẳng hướng đi của 1/2 hình tam giác, tượng bị cản theo hướng đường chéo đầu tiên trong hai đường chéo đi đến.
  • Khác với cờ vua, khi một bên hết nước đi hợp lệ, thì bên còn lại thắng (bức tử) .
  • Khi cả hai bên hết khả năng chiếu hết Tướng của đối phương, ván cờ sẽ được xử hoà.
  • Khi cả hai bên lặp đi lặp lại những nước cờ giống nhau mà không có lỗi vi phạm (bất biến), ván cờ sẽ được xử hoà (trừ khi một bên có biến hoá mới).
  • Khác với cờ vua, khi một bên chiếu mãi Tướng của đối phương mà không thay đổi nước đi thì bên đó vi phạm luật chơi và bị xử thua. Tuy nhiên nếu một bên áp dụng 'nhất chiếu nhất cách' (chiếu Tướng một lần sau đó lại đi một nước khác nước chiếu Tướng, và cứ liên tục như vậy) thì ván cờ sẽ được xử hoà (nếu không phát sinh thêm biến hoá mới).
  • Luật bắt quân liên tục (luật trường tróc): Trừ Tướng ra thì việc dùng một hay nhiều mẫu quân để dọa bắt quân của đối phương liên tục khi quân đó không thể bắt lại quân của mình hoặc quân đó chưa có quân khác bảo vệ là vi phạm luật chơi. Trường hợp quân bị dọa bắt là quân Tốt chưa sang sông thì không vi phạm.

Ký hiệu các vị trí trên bàn cờ[sửa | sửa mã nguồn]

.Để ký hiệu vị trí trên bàn cờ, người ta đánh số từ 1 đến 9 cho đường dọc, và đặt tên cho đường ngang gọi là các tuyến cho hai bên người chơi,

tốt

Đường dọc (Lộ)[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí của đường dọc được ký hiệu bằng các chữ số Ả rập hoặc chữ số Trung Quốc từ 9 đến 1 từ phải qua trái theo hướng nhìn của mỗi người chơi.

Đường ngang (Tuyến)[sửa | sửa mã nguồn]

Vị trí đường ngang được ký hiệu bằng tên các tuyến mỗi bên gồm có 5 tuyến từ tuyến hà đến tuyến đáy.

Cách ghi nước đi[sửa | sửa mã nguồn]

Trong các thế cờ, để ghi lại vị trí và sự dịch chuyển quân cờ, người ta thường ghi lại các nước đi như sau:

  • Dấu chấm (.) là tấn
  • Dấu gạch ngang (–) là bình
  • Dấu gạch chéo (/) là thoái

Các quân cờ được viết tắt như sau:

  • Tướng là Tg
  • Sĩ là S
  • Tượng là T (trước đây là V (Voi))
  • Xe là X
  • Pháo là P
  • Mã là M
  • Tốt hoặc Binh là B

Hệ thống 1: The Chess of China của Dennis A. Leventhal[sửa | sửa mã nguồn]

Các đường ngang của bàn cờ được đánh số từ 1 đến 10 từ gần nhất đến xa nhất, theo sau là một chữ số 1 đến 9 cho các đường dọc từ phải sang trái cho mỗi bên. Mỗi nước được ghi theo thứ tự: số thứ tự nước đi, tên quân cờ, vị trí đường ngang cũ, vị trí đường dọc cũ, vị trí đường ngang mới, vị trí đường dọc mới.

Ví dụ, nước đầu, Đỏ đi Pháo từ (3; 2) đến (3; 5), bên Đen Mã từ (1; 8) đến (3; 7) thì ghi:

  1. P(32)–35 M(18)–37

Nước thứ hai, Đỏ đưa Pháo từ (3; 8) đến (2; 8), Đen đưa Tốt từ (4; 7) đến (5; 7)

  1. P(38)–28 B(47)–57

Hệ thống 2: A Manual of Chinese Chess của Charles Fred Wilkes[sửa | sửa mã nguồn]

Đây là hệ thống ghi chép được dùng phổ biến ở Việt Nam. Mỗi nước được ghi theo thứ tự: số thứ tự nước đi, tên quân cờ, vị trí cũ, hướng dịch chuyển và số bước di chuyển/vị trí mới. Ví dụ, nước đầu, Đỏ đi Pháo 2 bình 5, bên Đen mã 8 tấn 7 thì ghi:

  1. P2–5 M8.7

Nước thứ hai, Đỏ đưa Pháo ở cột 8 lùi 1 bước, Đen đưa Tốt cột 7 lên một bước.

  1. P8/1 B7.1

Nếu 2 Pháo (hay Mã, Xe) nằm trên một đường thì ghi Pt (hoặc Mt, Xt) là Pháo trước (hoặc Mã trước, Xe trước), Ps (hoặc Ms, Xs) là Pháo sau (hoặc Mã sau, Xe sau).

Trong trường hợp cả 5 quân Tốt (Binh) nằm trên cùng một cột thì ký hiệu:

  • Tốt trước/Binh trước (Bt)
  • Tốt trước giữa/Binh trước giữa (Btg)
  • Tốt giữa/Binh giữa (Bg)
  • Tốt sau giữa/Binh sau giữa (Bsg)
  • Tốt sau/Binh sau (Bs)

Hệ thống 3: Trước năm 1955 và các giải đấu dành cho các đấu thủ không phải là gốc Hoa và gốc Việt[sửa | sửa mã nguồn]

Ký hiệu của một quân cờ được lấy là chữ cái đầu của tên các quân cờ, riêng quân Tốt thì không lấy chữ cái nào cả.

Quy tắc thống nhất đối với tất cả các nước:

  • đặt tên các cột từ a đến i từ bên tay trái sang bên phải theo phía người cầm quân Trắng,
  • đánh số các hàng từ 1 đến 10 (từ phía quân Trắng sang quân Đen).

Tên một ô là sự kết hợp tên một cột với số của một hàng.

Mỗi nước được ghi theo thứ tự: tên quân cờ, ô xuất phát, ô đến.

Ví dụ, nước đầu, Đỏ đi Pháo từ h3 đến e3, bên Đen Mã từ h9 đến g8 thì ghi:

  1. Ph3–e3 Mh9–g8 hay Phe3 Mg8

Ví dụ về trường hợp chiếu hết chỉ sau 4 nước:

  1. Pbe3 Phe8
  2. Ph6? Pb4?
  3. Pxe7+? Pexe4??
  4. Phe6#

Nước ăn quân thường được ký hiệu bằng dấu nhân (x). Nước chiếu Tướng có ký hiệu là dấu cộng (+), nước chiếu đôi (hai quân cùng chiếu Tướng) có ký hiệu là hai dấu cộng (++) và chiếu hết có ký hiệu là dấu thăng (#).

Các giai đoạn của một ván cờ[sửa | sửa mã nguồn]

Người ta thường chia ván cờ ra làm ba giai đoạn: khai cuộc, trung cuộctàn cuộc.

Khai cuộc[sửa | sửa mã nguồn]

Thường khai cuộc được tính trong khoảng 5-12 nước đầu tiên. Các nghiên cứu mới cho biết khai cuộc đóng góp rất quan trọng vào khả năng thắng của một ván cờ. Khai cuộc có thể đóng góp đến 40% trong khi trung cuộc và tàn cuộc đóng góp 30% mỗi giai đoạn.

Có rất nhiều dạng khai cuộc khác nhau, nhưng nói chung, có thể chia khai cuộc thành hai loại chính: khai cuộc Pháo đầu và khai cuộc không Pháo đầu.

Khai cuộc Pháo đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Tên của các khai cuộc được đặt tuỳ theo cách đi của bên đi sau, chỉ nêu vài loại chính:

Khai cuộc pháo đầu
Trung pháo đối không đầu pháo
Trung pháo đối hữu điệp pháo
Trung pháo đối tả điệp pháo
Trung pháo đối tả điệp pháo
Trung pháo đối hữu sĩ
Trung pháo đối tả sĩ
Trung pháo đối hữu tượng
Trung pháo đối tả tượng
Trung pháo đối nghịch pháo
Trung pháo đối thuận pháo
Trung pháo đối tam bộ hổ
Trung pháo đối uyên ương pháo
Trung pháo đối binh để pháo
Trung pháo đối hữu đơn đề mã
Trung pháo đối phản cung mã
Trung pháo tam binh đối tam bộ hổ
Trung pháo đối tả pháo biên
Trung pháo đối tả đơn đề mã
Trung pháo đối thất binh tuần hà pháo
Trung pháo đối thiên phong pháo
Trung pháo đối quy bối pháo
Trung pháo đối ngược phản cung mã
Trung pháo đối quá hà pháo
Trung pháo đối tuần hà pháo
Trung pháo tam binh đối bình phong mã
Trung pháo quá hà xa đối bình phong mã lưỡng đầu xà
Trung pháo thất binh đối bình phong mã tam bộ hổ
Trung pháo thất binh đối bình phong mã song pháo qua hà
Trung pháo thất binh quá hà xa đối bình phong mã

Khai cuộc không Pháo đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Khai cuộc không pháo đầu
Tiên thủ phi tượng biên
Tiên thủ thượng tướng cuộc
Tiên thủ phi pháo đạp mã
Tiên thủ trung binh cuộc
Tiên thủ điệp pháo cuộc
Tiên thủ thiết hoạt xa
Tiên thủ thoái pháo cuộc
Tiên thủ binh để pháo (liễm pháo)
Tiên thủ quá hà pháo
Tiên thủ tuần hà pháo
Tiên thủ binh biên cuộc
Tiên thủ thượng sĩ cuộc
Tiên thủ mã biên cuộc
Tiên thủ khởi pháo biên
Tiên thủ kim câu pháo (quá cung liễm pháo)
Tiên thủ sĩ giác pháo
Quá cung pháo
Tiên thủ khởi mã cuộc
Tiên thủ phi tượng cuộc
Tiên thủ tiên nhân chỉ lộ

Trung cuộc[sửa | sửa mã nguồn]

Khai cuộc và tàn cuộc do có vị trí và số lượng quân cờ có thể quy chung về một số dạng chính nên người ta đã nghiên cứu và tổng kết được các dạng như trên. Còn ở trung cuộc, thế cờ lúc này theo kiểu "trăm hoa đua nở" nên chủ yếu vận dụng các chiến thuật cơ bản như:

  • Lưỡng chiếu: 2 quân cờ chiếu cùng lúc
  • Bắt đôi: cùng một lúc đuổi bắt hai quân.
  • Nội kích: đánh từ phía trong.
  • Kích thẳng vào Tướng.
  • Tả hữu giáp công: kích vào cả hai cánh cùng một lúc.
  • Chiếu tướng bắt quân.
  • Điệu hổ ly sơn: làm cho một quân hay Tướng phải rời vị trí của nó.
  • Dẫn dụ: đây là đòn thu hút quân đối phương đến vị trí dễ bị công kích hoặc bị vây hãm, sau đó kết hợp với chiến thuật bịt chắn lối đi, đường rút của đối phương.
  • Tạo ách tắc: dùng chiến thuật thí quân để gây ách tắc, hết đường cựa của đối phương.
  • Ngăn trở, chia cắt: đòn này thường dùng cách thí quân để làm sự liên lạc giữa các quân bị cắt đứt.
  • Khống chế: chiến thuật này ngằm ngăn trở tầm hoạt động và sự cơ động của đối phương.
  • Dịch chuyển: chiến thuật này chú ý đến sự linh hoạt của các quân.
  • Bao vây.
  • Trợ sức: các quân trợ sức cho nhau để cùng chiếu.
  • Vu hồi: đánh vòng từ phía sau.
  • Qua lại: chiến thuật này dùng để thủ thế hay công sát.
  • Quấy nhiễu.
  • Vây điểm diệt viện: vây chặt quân nào đó của đối phương rồi đánh quân tới cứu viện.
  • Nước đợi chờ: đi nước không có tác dụng để nhường đối phương, làm đối phương hết nước đi mà thua cờ.
  • Giam quân: khi một bên đang trong tình thế nguy hiểm, nhưng sử dụng một nước khéo léo giam quân mạnh của đối phương (có thể dùng cách thí quân), sau đó dùng các quân còn lại để gỡ bí.
  • Vừa đỡ vừa chiếu lại.
  • Vừa đỡ vừa trả đòn.

Trung tàn[sửa | sửa mã nguồn]

Trung tàn là giai đoạn giữa Trung cuộc sắp chuyển sang giai đoạn Tàn cuộc, ở giai đoạn này hai bên thường bị mất một hoặc hai xe, khi hai người chơi đều đổi cả hai quân xe thì các kỳ thủ thường gọi vui là Cờ đi bộ vì khi đó ván cờ sẽ chơi theo đường dài.

Tàn cuộc[sửa | sửa mã nguồn]

Tàn cuộc là giai đoạn tổng số quân cờ, đặc biệt là quân tấn công (Xe, Pháo, Mã, Tốt) cả hai bên còn rất ít. Tàn cuộc chia làm ba loại,

1, Cờ tàn thực dụng loại cờ tàn mà thắng thua được các chuyên gia nghiên cứu và giải thích rõ ràng,

2, Cờ tàn thực chiến loài này đa biến phức tạp và thắng thua khó có thể phân định được rõ ràng,

3, Cờ tàn nghệ thuật loài này được gọi là Cờ thế nó cũng được coi là cờ tàn nhưng được sắp xếp các quân cờ thành những dạng độc đáo và thường có tính chất nghệ thuật cao.

Sát cuộc[sửa | sửa mã nguồn]

Sát cuộc là một giai đoán kết thúc của ván cờ, khi người chơi sử dụng một hoặc nhiều quân để chiếu hết (chiếu bí) tướng của đối phương.

Các hình thức chơi cờ tướng khác[sửa | sửa mã nguồn]

Cờ bỏi[sửa | sửa mã nguồn]

Cờ bỏi cũng là một hình thức đánh cờ, nhưng bàn cờ sẽ là một cái sân rộng có kẻ ô, các quân cờ được ghi lên các tấm biển bằng gỗ, gắn vào các cột dài chừng 1 mét có đế được đặt lên các vị trí trên sân. Người chơi phải tự nhấc quân cờ để đi, trước khi đi quân, phải có hiệu lệnh bằng trống bỏi. Từng đôi một vào thi đấu ở sân cờ. Thực chất đây là một bàn cờ lớn và nhiều người có thể cùng xem được.

Cờ người[sửa | sửa mã nguồn]

Trong các lễ hội dân gian vùng đồng bằng Bắc Bộ, cờ người là một trong những cuộc thi đấu thu hút được rất nhiều người đến xem và cổ vũ. Thông thường, nơi diễn ra trận cờ người là sân đình của làng. Quân cờ là những nam thanh nữ tú được làng kén chọn, vừa phải đẹp người, vừa phải đẹp nết. Tướng được phục trang như sau: đội mũ tướng, soái, mặc triều phục bá quan văn võ, chân đi hài thêu, lọng che. Sĩ đội mũ cánh chuồn có tua vàng. Mỗi người trong đội cờ cầm một chiếc trượng phía trên có gắn biểu tượng quân cờ được trạm trổ tinh xảo, sơn son thếp vàng lộng lẫy. Đội nam mặc áo đỏ, đội nữ mặc áo vàng với thắt lưng theo lối xưa.

Trước khi vào vị trí của mỗi người trên sân cờ, cả đội cờ múa theo tiếng trống, đàn, phách. Sau khi quân cờ đã vào các vị trí, một hồi trống dài nổi lên, hai đấu thủ cờ mặc áo dài, khăn xếp xuất hiện để được giới thiệu danh tính, mỗi người cầm một cây cờ đuôi nheo ngũ sắc nhỏ để chỉ huy trận đánh. Quanh sân, hàng trong thì khán giả ngồi, hàng ngoài đứng, chăm chú thưởng thức ván cờ và bàn tán râm ran. Khi cờ đến hồi gay cấn, cả sân xôn xao, một nước xuất thần, cả sân đều ồ lên khoái trá. Nếu quân cờ nào đó đi hơi chậm là có tiếng trống bỏi lanh canh vui tai nhắc nhở "cắc...tom tom". Bên lề sân có một cái trống to thỉnh thoảng được gióng lên một hồi điểm cho những nước đi. Khi Tướng bị chiếu, tiếng trống dồn dập, đám đông lại càng đông hơn, đã náo nhiệt lại càng náo nhiệt thêm. Đặc biệt hơn trong một số lễ hội, thỉnh thoảng người ta còn đọc những lời thơ ứng khẩu bình những nước đi trong sân trên chiếc loa ở sân.

Cờ tưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Cờ tưởng là hình thức đánh cờ bằng trí tưởng tượng, không nhìn bàn cờ thật. Các đối thủ không cần phải quay lưng lại với bàn cờ mà ngồi trước một bàn cờ trống (bàn cờ thật được để bên cạnh có ngăn cách). Ngồi đối diện sau những tấm kính, hai kỳ thủ đấu trí với nhau trên bàn cờ tưởng tượng trong trí nhớ rồi viết lên một tờ giấy đưa cho đối thủ xem, sau đó trao cho trọng tài. Mỗi nước đi của vận động viên được ghi lại trên giấy, được thông báo cho đối thủ sau đó đối thủ sẽ truyền cho trọng tài ngồi ở bàn bên cạnh để thực hiện nước đi đó trên bàn cờ cho khán giả thưởng thức. Do bàn trọng tài đặt bên cạnh bàn đấu (có rèm che bàn vận động viên), nên vận động viên không được rời bàn với bất kỳ lý do gì vì sợ họ nhìn lén các nước đã đi của mình. Quốc tế đại sư Tưởng Xuyên của Trung Quốc hiện đang giữ kỷ lục thế giới về cờ tưởng.

Cờ chấp[sửa | sửa mã nguồn]

  • Chấp quân: Quân bị chấp sẽ được bỏ ra ngoài bàn cờ ngay từ đầu. Thường là chấp Xe, Pháo, 2 Mã và 1 Mã.
  • Chấp nước đi: Người được chấp sẽ được đi một vài nước trước, rồi mới đến lượt người chấp. Quân đi trước sẽ không được ăn quân hoặc qua sông. Thông thường chấp 1-2-3 nước đi trước, từ chuyên dùng gọi là chấp 1-2-3 tiên. Trên thực tế có thể phối hợp cả hai loại chấp trên, như chấp Mã và đi trước 2 nước (Mã 2 tiên).

Cờ úp[sửa | sửa mã nguồn]

Cờ úp là hình thức đánh cờ khi mà 15 quân mỗi bên được úp ngược và sắp xếp ngẫu nhiên trừ quân tướng. Khi sắp cờ các quân cờ của mỗi bên xáo trộn ngẫu nhiên, bị úp sau đó sắp theo thế trận cờ tướng thông thường.

Nước đi đầu tiên của quân cờ úp phải tuân theo luật đi của quân cờ tại vị trí mà nó đang chiếm giữ. VD: quân bị úp đang ở vị trí của quân tốt thì phải đi theo nước của quân tốt. Sau khi đi một quân cờ úp thì quân đó sẽ lật ngửa và người chơi sẽ biết được nó là quân nào và từ đó trở đi quân đó đi theo luật của quân cờ ngửa.

Luật bổ sung:

  • Quân Sĩ không bị giới hạn trong cấm cung mà có thể đi khắp bàn cờ theo luật đi chéo của nó.
  • Quân Tượng không bị giới hạn bên phần "sân nhà" mà có thể đi sang lãnh thổ đối phương.
  • Quân Tốt (chốt) có thể xuất phát từ dưới đường biên ngang bên phần sân nhà và đi thẳng lên, đến khi qua sông thì được đi ngang.

So với cờ tướng thì cờ úp có nước đi phong phú và đa dạng hơn, vì cờ tướng úp có thêm Sĩ và Tượng chiếu bắt tướng được. Trong tình huống nguy cấp, có thể chỉ cần mở đúng quân cờ sẽ làm thay đổi cục diện ván đấu.

Cờ Tam quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Là loại cờ dành cho 3 người chơi, luật chơi và số quân của mỗi bên như nhau, không khác gì với cờ tướng bình thường. Bàn cờ thường là hình lục giác, bên nào bị mất Tướng trước thì quân bên đó sẽ được sáp nhập vào quân đã chiếm quân đó, nước bị chiếm sẽ bị người chơi của nước chiếm điều khiển tùy ý (tức là một người chơi sẽ có 2 tướng, 4 xe,...). Sau khi có 1 nước chiếm được một nước rồi thì quân bên kia sẽ chơi thế trận 1 chọi 2, bên quân chiếm được hai nước nếu bị chiếm một nước thì vẫn có thể sử dụng nước mình đã chiếm mà chơi tiếp.

Cờ thế[sửa | sửa mã nguồn]

Chơi cờ thế là hình thức chơi cờ mà bàn cờ lúc ban đầu đã có sẵn các thế cờ, quân cờ đang ở các vị trí như trong một ván cờ dang dở, mức độ thế cờ từ dễ đến khó và người chơi phải thắng hoặc hòa sau một số nước đi được yêu cầu từ trước. Cờ thế hay được thấy ở các lễ hội dân gian.

Cờ tướng Mãn Châu[sửa | sửa mã nguồn]

Cờ tướng bảy người chơi[sửa | sửa mã nguồn]

Thành ngữ trong cờ tướng[sửa | sửa mã nguồn]

Chơi cờ tướng tại một công viên ở Trung Quốc
Một bàn cờ đá trong sân chơi ở Trung Quốc
  • Cờ tàn, Pháo hoàn.
  • Khuyết Sĩ kỵ song Xa.
  • Khuyết Tượng kỵ Pháo.
  • Nhất Sĩ chòi góc, cóc sợ Mã công.
  • Mã nhập cung Tướng khốn cùng.
  • Nhất Xe sát vạn.
  • Cờ bí dí Tốt.
  • Được thế bỏ Xe cũng tốt, mất tiên khí tử toi công.
  • Nhất tốt độ hà, bán xa chi lực. (Một tốt qua sông sức mạnh bằng nửa Xe)
  • Pháo đầu Xuất tướng Xe đâm thọc.
  • Pháo đầu, Mã đội, Tốt lên hà.
  • Mất Xe không bằng què Tượng.
  • Quan kỳ bất ngữ.
  • Hạ thủ bất hoàn.
  • Khuyết Sĩ kỵ Tốt đâm thọc.
  • Nhất mã chiếu vô cùng
  • Mã nhật, Tượng điền, Xe liền, Pháo cách.
  • Tướng mất Sĩ như đĩ mất váy...
  • Xe mười Pháo bảy Mã ba.

Các câu đối và thơ về cờ tướng[sửa | sửa mã nguồn]

Trải Hạ Thu Đông gặp tiết Xuân về càng phấn chấn
So Cầm Thi Họa thêm bàn Cờ nữa mới thanh cao.
Tiểu liệt, Đại liệt giao tranh kịch liệt
Bình xa, Hoành xa chiến lược cao xa.
Phải nhìn cho rộng suy cho kỹ
Kiên quyết không ngừng thế tấn công
Lạc nước hai Xe đành bỏ phí
Gặp thời một Tốt cũng thành công
(Trích bài "Học đánh cờ" trong tập
"Nhật ký trong tù" của Hồ Chí Minh)
Thắt lưng hoa lý mắt câu huyền
Sĩ Tượng gươm trần gác mỗi bên
Em làm bà Tướng lòng anh đó
Anh nguyện xin làm phận Tốt đen.
(Bài "Hội cờ người" của N.V.C)
Thoạt mới vào chàng liền nhảy ngựa
Thiếp vội vàng vén phứa tịnh lên
(Thơ Hồ Xuân Hương)
Quan kỳ bất ngữ chân quân tử
Hạ thủ vô hồi đại trượng phu

(Xem cờ không nói mới thật quân tử. Nhấc tay không hoãn mới đúng trượng phu)

Đừng quen pháo mạnh vọt ngang cung, 

Mệnh tướng truyền ra sĩ vẫy vùng. 

Voi ngự thân chinh mang mở nước, 

Binh triều ngự giá giục sang sông. 

Xe liên vạn sát kinh tài cả, 

Mã nhựt song trì mặc sức tung. 

Sau trước trong tay rành rỏi nước, 

Cờ cao Hán Tổ dễ đua cùng.

(Vịnh bàn cờ thắng - Trần Cao Vân)

Kỷ lục cờ tướng[sửa | sửa mã nguồn]

  • Chơi cờ tưởng: Ngày 27 tháng 1 năm 2013 Quốc tế Đại sư Trung Quốc Tưởng Xuyên đã thi đấu cờ tưởng với 22 kỳ thủ có đẳng cấp. Kết quả, sau gần 8 giờ đồng hồ (từ 8h30 phút đến 16h12 phút) anh đã thắng 16 và hoà 6, không thua ván nào.[cần dẫn nguồn]
  • Chơi cờ đồng loạt: Ngày 30 tháng 5 năm 1996, Từ Thiên Hồng, danh thủ cờ tướng Trung Quốc, một mình đấu cùng lúc với 100 đối thủ. Cuộc đấu cờ dài 9 giờ 28 phút với kết quả: ông thắng 83 ván, hoà 16 ván và thua 1 ván.

Các giai thoại về cờ tướng[sửa | sửa mã nguồn]

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Các loại cờ khác[sửa | sửa mã nguồn]

Các danh thủ cờ tướng[sửa | sửa mã nguồn]

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ "Facts on the Origin of Chinese Chess" Lưu trữ 2011-07-23 tại Wayback Machine. Banaschak.net. Truy cập 2011-10-01.
  2. ^ A History of Chess, tr.122, chú thích 12
  3. ^ A History of Chess, tr.122.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/C%E1%BB%9D_t%C6%B0%E1%BB%9Bng