Wiki - KEONHACAI COPA

Cúp bóng đá Nam Mỹ

Cúp bóng đá Nam Mỹ
Cơ quan tổ chứcCONMEBOL
Thành lập1916; 108 năm trước (1916)
Khu vựcNam Mỹ
Số đội10 (2021)
Vòng loại choCONMEBOL–UEFA Cup of Champions
Giải đấu
liên quan
UEFA European Championship
Copa Centenario Revolución de Mayo
Đội vô địch
hiện tại
 Argentina (danh hiệu thứ 15)
Đội bóng
thành công nhất
 Argentina
 Uruguay
(mỗi đội 15 danh hiệu)
Trang webcopaamerica.com
Cúp bóng đá Nam Mỹ 2024

Copa América (từ tiếng Tây Ban Nhatiếng Bồ Đào Nha, nghĩa đen "Cúp Châu Mỹ") hay Cúp bóng đá Nam Mỹ trong tiếng Việt (trước năm 1975 có tên là Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ, tiếng Tây Ban Nha: Campeonato Sudamericano de Fútbol, tiếng Bồ Đào Nha: Campeonato Sul-Americana de Futebol),[1] là giải đấu bóng đá nam giữa các đội tuyển quốc gia từ Nam Mỹ, xác định nhà vô địch của Nam Mỹ[2][3][4] . Đây là giải đấu bóng đá châu lục lâu đời nhất[2] và là một trong những giải đấu danh giá nhất trên thế giới, quy tụ nhiều ngôi sao hàng đầu.

Kể từ năm 1993, giải đấu thường có 12 đội—tất cả 10 đội CONMEBOL và hai đội bổ sung từ các liên đoàn khác, các đội từ Bắc Mỹ và châu Á cũng thường xuyên được mời tham gia thi đấu. México tham gia mọi giải đấu từ năm 1993 đến 2016, với một đội bổ sung được rút ra từ CONCACAF, ngoại trừ năm 1999, khi đội AFC Nhật Bản điền vào danh sách 12 đội và năm 2019, có sự góp mặt của Nhật Bản và Qatar. Phiên bản 2016 của giải đấu, Copa América Centenario, có 16 đội, với sáu đội từ CONCACAF cùng với 10 đội từ CONMEBOL.[5] Hai lần về nhì của México là thành tích cao nhất đối với một đội không thuộc CONMEBOL.

Tám trong số mười đội tuyển quốc gia CONMEBOL đã vô địch giải đấu ít nhất một lần trong 47 lần tổ chức kể từ khi sự kiện khai mạc vào năm 1916, chỉ có EcuadorVenezuela là chưa vô địch. ArgentinaUruguay có nhiều chức vô địch nhất trong lịch sử giải đấu, với 15 cúp mỗi bên. Argentina, tổ chức lần đầu tiên vào năm 1916, đã tổ chức giải đấu nhiều lần nhất (chín lần). Hoa Kỳ là quốc gia duy nhất không thuộc CONMEBOL tổ chức sự kiện này, đã tổ chức như vậy vào năm 2016. Trong ba lần (năm 1975, 1979 và 1983), giải đấu được tổ chức ở nhiều quốc gia Nam Mỹ. Trừ năm 1931 1933 1943 1951 1961 1965 1969 1971 1973 1981 2003 2013 2023 là không tổ chức copa America

Lịch sử[sửa | sửa mã nguồn]

Thời kỳ đầu[sửa | sửa mã nguồn]

Đội bóng đá đầu tiên ở Nam Mỹ, Câu lạc bộ bóng đá và cricket Lima, được thành lập ở Peru vào năm 1859Hiệp hội bóng đá Argentina được thành lập vào năm 1893. Đến đầu thế kỷ 20, bóng đá ngày càng phổ biến và giải đấu quốc tế đầu tiên được tổ chức giữa các đội tuyển quốc gia của lục địa Nam Mỹ đã diễn ra vào năm 1910 khi Argentina tổ chức một sự kiện để kỷ niệm 100 năm của Cách mạng Tháng Năm[6]. ChileUruguay đã tham gia, nhưng sự kiện này không được CONMEBOL công nhận là giải đấu Copa America chính thức. Tương tự như vậy, để kỷ niệm 100 năm độc lập, Argentina đã tổ chức một giải đấu từ ngày 2 đến 17 tháng 7 năm 1916 gồm Argentina, Chile, UruguayBrasil là những ĐTQG tham gia đầu tiên của giải đấu. Tên gọi của giải khi đó là Campeonato Sudamericano de Football, cũng là phiên bản đầu tiên của Copa América hiện nay. Uruguay vô địch giải đầu tiên này sau khi thắng chủ nhà Argentina trong trận đấu quyết định được tổ chức tại Câu lạc bộ đua xe Estadio ở Avellaneda[7].

Nhận thấy sự thành công của giải đấu, một ủy viên của Hiệp hội bóng đá Uruguay, ông Héctor Rivadavia, đã đề xuất thành lập một liên minh các hiệp hội của Argentina, Brasil, Chile và Uruguay, và vào ngày 9 tháng 7, ngày độc lập ở Argentina, CONMEBOL đã được thành lập[8]. Năm 1917, giải tiếp tục được tổ chức, lần này là ở Uruguay. Uruguay đã tiếp tục vô địch sau khi đánh bại Argentina 1–0 trong trận chung kết của giải đấu. Thành công của giải đấu trên đất Uruguay khiến CONMEBOL vui mừng. Sau khi dịch cúm xảy ra ở Rio de Janeiro, CONMEBOL đã phải hủy bỏ giải đấu năm 1918. Brasil đã tổ chức giải đấu năm 1919 và lần đầu tiên họ lên ngôi vô địch sau khi đánh bại đương kim vô địch Uruguay 1–0 trong trận đấu quyết định. Sang giải đấu năm 1920, Uruguay đã đòi lại ngôi vương.

Ở giải đấu vào năm 1921, Paraguay đã tham gia lần đầu tiên sau khi LĐBĐ của họ gia nhập CONMEBOL. Argentina đã giành chức vô địch lần đầu tiên của họ ở giải đấu kỳ này nhờ các bàn thắng của Julio Libonatti. Trong những năm tiếp theo, Uruguay đã thống trị giải đấu, lúc đó, Copa America là giải bóng đá lớn nhất thế giới (khi Euro hay World Cup chưa ra đời). Sau khi Argentina thua trận chung kết tại Thế vận hội Mùa hè 1928 được tổ chức ở Amsterdam (Hà Lan), Argentina đã rửa được mối hận ở giải Copa America 1929 bằng việc đánh bại Uruguay trong trận đấu cuối cùng. Trong giai đoạn này, BoliviaPeru đã lần đầu tiên tham dự giải đấu năm 1926 và 1927.

Sự gián đoạn[sửa | sửa mã nguồn]

Sau kỳ World Cup đầu tiên được tổ chức tại Uruguay vào năm 1930, sự thù hằn giữa hai nền bóng đá Uruguay và Argentina đã khiến Copa America bị gián đoạn trong một số năm. Đến năm 1935, giải đấu mới có thể được phục hồi. Peru đã trở thành quốc gia đăng cai giải đấu vào năm 1939 và lần đầu tiên họ giành chức vô địch, Ecuador đã tham dự lần đầu tiên ở giải đấu năm đó.

Năm 1941, Chile đã tổ chức giải để kỷ niệm 400 năm thành lập thành phố Santiago, nơi sân vận động Estád Nacional mới được xây dựng đã được mở rộng từ 30.000 đến 70.000 khán giả. Bất chấp sự đầu tư lớn, Chile đã bị Argentina đánh bại trong trận chung kết. Uruguay đã tổ chức và giành chiến thắng giải đấu năm 1942. Chile cũng tổ chức giải một lần nữa vào năm 1945 và Argentina đã một lần nữa giành chiến thắng trên đất Chile.

Giai đoạn sau đó, giải đấu bước vào một thời kỳ bị gián đoạn. Giải đã không được công nhận là chính thức ở nhiều kỳ được tổ chức ở thời điểm đó và chỉ được CONMEBOL coi là hợp lệ sau này. Ví dụ, Argentina đã là đội đầu tiên (và duy nhất cho đến nay) giành được 3 chức vô địch liên tiếp vào các năm 1945, 1946 và 1947. Sau 3 giải đấu thường niên đó, giải đã được tổ chức 2 năm 1 lần, rồi 3 năm 1 lần và 4 năm 1 lần vào thời gian sau đó. Thậm chí giải đấu còn được tổ chức tới 2 lần vào năm 1959, một ở Argentina và một ở Ecuador.

Trong thời gian này, một số đội tuyển quốc gia đã thờ ơ với giải đấu. Một số không tham gia, một số thì gửi đội trẻ đến dự; giải đấu năm 1959 được tổ chức tại Ecuador, Brasil thậm chí đã gây sốc hơn khi gọi các cầu thủ từ một CLB đến từ bang Pernambuco vào ĐTQG để dự giải. Lần đầu tiên, Bolivia giành chức vô địch Copa America khi họ đăng cai vào năm 1963. Giải đấu năm 1967, Venezuela lần đầu tiên tham dự. Việc thành lập Copa Libertadores vào năm 1959 cũng ảnh hưởng đến số lượng khán giả tới xem.

Sau 8 năm vắng bóng không được tổ chức vì nhiều lý do, giải đã bắt đầu lại vào năm 1975 và chính thức được gọi tên là Copa América. Giải đấu không có địa điểm tổ chức cố định và tất cả các trận đấu được diễn ra trong suốt cả năm ở mỗi quốc gia. Cả 9 đội tuyển quốc gia tham gia vòng bảng, nhà đương kim vô địch Uruguay được đặc cách vào bán kết. Giải đấu được tổ chức 4 năm một lần cho đến năm 1987.

Sự thay đổi[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1986, CONMEBOL quyết định luân phiên một quốc gia thành viên đăng cai giải đấu theo bảng chữ cái ABC. Từ năm 1987 đến năm 2001, giải này được tổ chức 2 năm một lần. Thể thức giải với vòng bảng có 9 đội chia làm 3 bảng, đội đương kim vô địch được đặc cách vào bán kết. Sự đổi mới này đã giúp giải đấu bắt đầu nhận được sự phủ sóng truyền hình ở châu Âu và Bắc Mỹ. Copa América 1987 được tổ chức tại Argentina sau 28 năm. Mặc dù đã vô địch FIFA World Cup 1986, lại được chơi trên sân nhà và có huyền thoại Diego Maradona dẫn dắt, nhưng Argentina chỉ giành hạng tư sau khi bị đánh bại bởi đương kim vô địch Uruguay 0–1 trong trận bán kết. Uruguay đã đánh bại Chile trong trận chung kết để đăng quang ngôi vô địch, đáng chú ý Chile đã thắng sốc Brasil 4–0 ở vòng bảng.

Brasil đã có danh hiệu quốc tế chính thức đầu tiên kể từ FIFA World Cup 1970 khi họ giành được cúp vô địch Copa América năm 1989 được tổ chức trên sân nhà. Đến lượt mình, Argentina cũng vô địch Copa América sau 32 năm dài chờ đợi vào năm 1991 tại Chile, nhờ một đội hình mạnh mẽ với cầu thủ vĩ đại Gabriel Batistuta. Giải đấu Copa América năm 1993 tại Ecuador được nâng lên 12 đội với 10 đội Nam Mỹ và 2 đội đến từ Bắc Mỹ là Mexico và Hoa Kỳ.

Uruguay đã vô địch giải năm 1995 với tư cách là chủ nhà, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng của bóng đá Uruguay. Với việc thực hiện nước đăng cai luân phiên theo bảng chữ cái ABC, Colombia, Paraguay và Venezuela đã được tổ chức giải đấu lần đầu tiên. Brasil đã giành 4 chức vô địch trong 5 kỳ được tổ chức sau đó  từ năm 1997 đến năm 2007. Lần đầu tiên, là vào năm 1997, Brasil đã giành cúp sau khi đánh bại quốc gia chủ nhà Bolivia với 3 bàn thắng của Leonardo, DenílsonRonaldo tại sân vận động ở Verde – nơi có sân vận động bóng đá cao nhất thế giới so với mực nước biển. Brasil đã bảo vệ thành công danh hiệu này vào năm 1999 sau khi đánh bại Uruguay 3–0 tại Asuncion, Paraguay. Tuy nhiên, Copa América năm 2001 đã chứng kiến một trong những bất ngờ lớn nhất của giải này khi Honduras (khách mời từ Bắc Mỹ) đã loại Brasil ở tứ kết. Colombia, quốc gia chủ nhà, đã lần đầu tiên giành cúp.

Từ năm 2001 đến 2007, giải đấu được tổ chức 3 năm một lần và từ năm 2007 trở đi quay lại với chu kì 4 năm 1 lần. Sau màn trình diễn đáng xấu hổ vào năm 2001, Brasil đã tái giành cúp ở giải vô địch Nam Mỹ năm 2004 được tổ chức tại Peru khi đánh bại Argentina trên chấm phạt đền sau khi hòa 2–2 trong 90 phút chính thức do công của Luisao và ngôi sao của giải – Adriano. Ba năm sau, hai đội gặp lại nhau trong trận chung kết, lần này là ở Venezuela. Một lần nữa, Brasil lại giành chiến thắng sau khi đè bẹp Argentina 3–0 với ngôi sao của giải – Júlio Baptista.

Argentina đã tổ chức giải năm 2011 và để thua dưới tay Uruguay ở tứ kết bằng loạt sút luân lưu. Uruguay đã đánh bại Peru 2–0 trong trận bán kết để lọt vào trận chung kết và hủy diệt Paraguay 3–0, qua đó giành được chiếc cúp trên đất Argentina lần thứ 3 và lần thứ 2 liên tiếp (khi được tổ chức ở Argentina). Đây là giải đấu lần thứ 43, là lần đầu tiên cả Argentina và Brasil không lọt vào bán kết của một giải đấu mà cả hai cùng tham gia. Giải đấu năm 2011 cũng ghi nhận một kỷ lục trong lịch sử bóng đá khi Paraguay là ĐTQG không giành được bất kỳ một chiến thắng nào, một bàn thắng nào (toàn hòa 0–0 ở 3 trận vòng bảng, thắng luân lưu ở tứ kết và bán kết sau khi hòa Brasil và Venezuela 0–0) để đi tới trận chung kết của giải, nơi họ tiếp tục không ghi bàn nhưng thua Uruguay 0–3.

Copa America 2015 đã được tổ chức tại Chile, giải lần đầu tiên áp dụng công nghệ vạch vôi điện tử Goal-line. Giải đấu này lẽ ra sẽ được tổ chức ở Brasil bởi quy luật đăng cai luân phiên theo vần ABC, nhưng trong bối cảnh Brasil bận tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 2014Thế vận hội mùa hè 2016, Chile đã thế chỗ, đổi lại Brasil thay Chile đăng cai giải vào năm 2019. Chile đã giành chức vô địch lần đầu tiên trong lịch sử sau khi đánh bại Argentina của Lionel Messi trên chấm luân lưu.

Năm 2016, để kỷ niệm 100 năm của giải, giải được gán tên Copa América Centenario và được tổ chức tại Hoa Kỳ. Giải đấu này là lần đầu tiên được tổ chức bên ngoài Nam Mỹ và được mở rộng lên đến 16 đội (10 từ CONMEBOL và 6 từ CONCACAF) và là lần thứ hai áp dụng công nghệ Goal-line. Trong giải đấu, báo chí có thông tin cho rằng CONMEBOL và CONCACAF đang đàm phán để sáp nhập Copa América với Gold Cup để hình thành giải vô địch toàn châu Mỹ, dự định sẽ được tổ chức 2 năm một lần, với Hoa Kỳ là quốc gia tổ chức các giải đấu thường xuyên[9]. Tuy nhiên, Chủ tịch Liên đoàn bóng đá Hoa Kỳ Sunil Gulati gọi tin đồn này là không chính xác và nói rằng sẽ không có cuộc thảo luận nào như vậy xảy ra[10]. Chile tiếp tục gieo sầu cho người Argentina khi đánh bại họ trên chấm luân lưu để bảo vệ ngai vàng.

Năm 2019, giải được tổ chức ở Brasil theo chu kỳ 4 năm 1 lần sau lần trước vào năm 2015 ở Chile, lần thứ ba áp dụng Goal-line và lần đầu tiên áp dụng trợ lý video hỗ trợ trọng tài (VAR) cùng nhiều thay đổi của luật bóng đá do IFAB ban hành. Brasil đã giành chức vô địch sau khi đánh bại Peru (đội đã bất ngờ loại đương kim vô địch Chile ở bán kết) với tỉ số 3–1 nhờ sự tỏa sáng của ngôi sao trẻ Everton Soares.

Trong phiên họp năm 2019, CONMEBOL đã quyết định, giải sẽ quay lại năm chẵn và được tổ chức 4 năm một lần để cạnh tranh với UEFA Euro 2020, điều đó có nghĩa là Copa America sẽ được tổ chức vào năm 2020 do Argentina và Colombia đồng đăng cai[11]. Sau đó 4 năm sau, giải năm 2024 được tổ chức ở Ecuador (do Bolivia tiếp tục rút lui không đăng cai theo nghĩa vụ). Song tình hình đại dịch COVID-19 dai dẳng khiến cho Copa America (cũng như Euro) không thể diễn ra trong năm 2020. Cả Argentina và Colombia sau đó cũng bị tước quyền đăng cai do nơi thì dịch bệnh diễn biến phức tạp, nơi thì lại gặp những bất ổn về chính trị.[12] Brasil một lần nữa đứng ra đăng cai giải đấu lần này thông qua sự lựa chọn của CONMEBOL, mặc cho một số cầu thủ của Brasil, Argentina, Uruguay ra sức phản đối việc tổ chức này.[13][14] Tại giải đấu này, Argentina giành chức vô địch vô địch lần thứ 15 sau khi đánh bại đại kình địch Brasil với tỉ số 1–0 nhờ sự tỏa sáng của các ngôi sao Lionel Messi, Ángel Di María, Sergio Agüero.

Theo quy định luân phiên ABC, dễ dàng tìm ra nước chủ nhà cho các năm 2028, 2032, 2036. Tuy nhiên, trong tương lai có thể sẽ có sự thay đổi.

Chủ nhà[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1984, CONMEBOL đã thông qua chính sách luân phiên quyền tổ chức Copa América trong số 10 quốc gia thành viên theo bảng chữ cái ABC (nghĩa là Argentina đăng cai xong sẽ đến lượt Bolivia, Colombia,... cho đến Venezuela đăng cai các giải đấu sau đó). Vòng đăng cai đầu tiên đã được hoàn thành sau kỳ Copa América 2007 diễn ra ở Venezuela. Vòng đăng cai thứ hai bắt đầu vào năm 2011, với các nước chủ nhà luân chuyển theo thứ tự bảng chữ cái, bắt đầu với Argentina. Chile, Mexico và Hoa Kỳ bày tỏ sự quan tâm đến việc tổ chức giải đấu tiếp theo, nhưng Ủy ban điều hành CONMEBOL quyết định tiếp tục thực hiện vòng quay, ưu tiên tổ chức cho các nước thành viên của mình; mỗi nước sẽ xác nhận xem họ có khả năng tổ chức hay không, nếu không, nước tiếp sau trong bảng chữ cái được đăng cai thay. Argentina đã xác nhận vào ngày 24 tháng 11 năm 2008, thông qua đại diện của LĐBĐ Argentina, rằng họ sẽ tổ chức Copa América 2011.

Copa América 2015 dự kiến sẽ được tổ chức tại Bolivia theo thứ tự xoay vòng bảng chữ cái, nhưng Bolivia vì điều kiện kinh tế đã xin rút lui và Brasil được giao "nghĩa vụ" đăng cai. Tuy nhiên, việc tổ chức FIFA World Cup 2014Thế vận hội Mùa hè 2016 tại Brasil dẫn đến sự việc được xem xét lại vì họ rất bận. Mặc dù Chủ tịch CONMEBOL Nicolas Leoz đã đề xuất tổ chức giải đấu ở Mexico (thành viên của liên đoàn CONCACAF), song Brasil và Chile đã thảo luận về khả năng hoán đổi quyền đăng cai giải đấu 2015 và 2019, và đã được CBF quyết định và xác nhận vào tháng 2 năm 2011 rằng Copa América 2015 sẽ vẫn ở Brasil. Tuy nhiên, vào tháng 3 năm 2012, Chile đã thông báo rằng họ sẽ tổ chức Copa América 2015, sau khi Chủ tịch của CBF, ông Ricardo Teixeira từ chức và CBF đồng ý hoán đổi với Chile. Việc hoán đổi đã được chính thức công bố vào tháng 5 năm 2012. Phiên bản kỷ niệm 100 năm của giải đấu, Copa América Centenario, diễn ra vào tháng 6 năm 2016 và được tổ chức tại Hoa Kỳ. Copa América Centenario đánh dấu lần đầu tiên giải đấu được tổ chức bởi một quốc gia không thuộc CONMEBOL.

Mỗi kỳ Copa América từ năm 1987 luôn có linh vật và logo riêng, bao gồm cả bài hát chính thức và các sự kiện bên lề. Gardelito, linh vật cho giải năm 1987, là linh vật Copa América đầu tiên.

Bảng thống kê chủ nhà Copa America
Chủ nhàNăm đăng cai
 Argentina9 (1916, 1921, 1925, 1929, 1937, 1946, 1959, 1987, 2011)
 Uruguay7 (1917, 1923, 1924, 1942, 1956, 1967, 1995)
 Chile7 (1920, 1926, 1941, 1945, 1955, 1991, 2015)
 Peru6 (1927, 1935, 1939, 1953, 1957, 2004)
 Brasil5 (1919, 1922, 1949, 1989, 2019, 2021)
 Ecuador4 (1947, 1959, 1993, 2024)
Không có quốc gia đăng cai [F]3 (1975, 1979, 1983)
 Bolivia2 (1963, 1997)
 Hoa Kỳ C2 (2016, 2024)
 Colombia1 (2001)
 Paraguay1 (1999)
 Venezuela1 (2007)
C = chủ nhà không thuộc CONMEBOL

Thể thức[sửa | sửa mã nguồn]

Giải đấu trước đây được gọi là Campeonato Sudamericano de Futbol (South American Championship of Football – Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ). South American Championship of Football là tên tiếng Anh chính thức. Tên hiện tại – Copa America đã được sử dụng từ năm 1975. Trong giai đoạn 19751983, giải không có quốc gia đăng cai và được tổ chức theo kiểu sân nhà và sân khách. Giải đấu hiện tại có 12 đội tuyển quốc gia thi đấu hơn một tháng tại quốc gia chủ nhà. Có hai giai đoạn: vòng bảng và vòng loại trực tiếp. Ở vòng bảng, các đội thi đấu vòng tròn với 3 bảng, mỗi bảng 4 đội. Ba đội được chọn là hạt giống, bao gồm cả đội chủ nhà, với các đội hạt giống khác được chọn bằng cách sử dụng Bảng xếp hạng (BXH) FIFA. Các nhóm khác được dựa trên BXH FIFA và các đội được bốc thăm ngẫu nhiên.

Mỗi bảng, các đội được lên lịch chơi ba trận đấu với các đội khác trong cùng một bảng. Vòng cuối của vòng bảng, 2 trận đấu trong bảng không được đá cùng giờ – một điều lạ, khác với nhiều giải đấu trên thế giới. Hai đội đứng đầu từ mỗi bảng tiến vào vòng tứ kết cùng hai đội hạng ba có thành tích tốt nhất. Điểm được sử dụng để xếp hạng các đội trong một bảng. Bắt đầu từ năm 1995, 3 điểm cho một trận thắng, 1 điểm cho trận hòa và 0 điểm nào cho trận thua (trước đó, đội thắng nhận được 2 điểm).

Thứ hạng của mỗi đội trong mỗi bảng được xác định như sau:

a) Điểm số lớn nhất đạt được

b) Hiệu số bàn thắng bàn thua;

c) Tổng bàn thắng ghi được.

Nếu hai hoặc nhiều đội bằng nhau ở ba tiêu chí trên, thứ hạng của họ được xác định như sau:

d) Điểm số đạt được trong các trận đấu giữa các đội liên quan;

e) Hiệu số bàn thắng trong các trận đấu giữa các đội liên quan;

f) Số lượng bàn thắng ghi được trong tất cả các trận đấu giữa các đội liên quan;

g) Bốc thăm của Ban tổ chức CONMEBOL.

Vòng đấu loại trực tiếp, các đội chỉ thi đấu mỗi trận một lượt duy nhất, với các loạt sút luân lưu được sử dụng để quyết định đội thắng nếu trận đấu hòa trong 90 phút và 30 phút hiệp phụ.

Khách mời[sửa | sửa mã nguồn]

Do số lượng thành viên của CONMEBOL ít, chỉ có 10 đội, các quốc gia từ các châu lục khác thường được mời tham gia để tạo nên 12 đội cho dễ chia bảng. Kể từ năm 1993, hai đội từ các khu vực khác, thường là từ CONCACAF gần gũi về mặt địa lývăn hóa, cũng đã được mời. Trong lịch sử, 9 ĐTQG khác nhau đã được mời tham gia giải là:

*: chủ nhà

Mexico đã tham dự đầy đủ các kỳ từ năm 1993 đến 2016, Hoa Kỳ đã được mời ở mọi giải đấu từ năm 1997 đến 2007 nhưng cũng thường xuyên từ chối lời mời do xung đột lịch trình với Major League Soccer – giải nhà nghề Mỹ. Tuy nhiên, vào ngày 30 tháng 10 năm 2006, Liên đoàn bóng đá Hoa Kỳ đã chấp nhận lời mời tham gia giải đấu năm 2007, chấm dứt 12 năm vắng bóng. Tại Copa América 2001, Canada là ĐTQG được mời, nhưng đã rút lui ngay trước khi bắt đầu giải đấu vì những lo ngại về an ninh.

Tại Copa América 2011, Nhật Bản tiếp tục rút lui, do khó khăn trong việc gọi các cầu thủ thi đấu ở châu Âu lên ĐTQG và nhất là trận động đất và sóng thần Tōhoku khiến họ không còn tâm trí để đá bóng. ĐTQG Tây Ban Nha được mời tham dự năm 2011, nhưng theo Liên đoàn bóng đá Hoàng gia Tây Ban Nha, họ đã từ chối vì không muốn làm gián đoạn ngày nghỉ của các cầu thủ Tây Ban Nha. Tại Copa América 2015, Nhật Bản đã từ chối lời mời vì họ cũng không thể gọi các cầu thủ đang thi đấu ở châu Âu lên tuyển. Trung Quốc sau đó cũng được mời thay những cũng phải rút lui do bận thi đấu Vòng loại World Cup 2018 khu vực châu Á.[15] Cuối cùng, Jamaica đồng ý tham gia và gấp rút lên đường sang thi đấu.

ÚcQatar là 2 đội tuyển được mời tham dự Copa America 2021 nhưng sau đó phải bỏ cuộc do trùng với lịch thi đấu Vòng loại World Cup 2022 khu vực châu Á, vốn dĩ đã được dời sang năm 2021 do COVID-19.[16][17]

Thành tích của các đội khách mời[sửa | sửa mã nguồn]

ĐộiEcuador

1993

Uruguay

1995

Bolivia

1997

Paraguay

1999

Colombia

2001

Peru

2004

Venezuela

2007

Argentina

2011

Chile

2015

Hoa Kỳ

2016

Brasil

2019

Lần tham dự
 Costa RicaVBTKTKVBVB5
 HaitiVB1
 Honduras3rd1
 JamaicaVBVB2
 Nhật BảnVBVB2
 México2ndTK3rd3rd2ndTK3rdVBVBTK10
 PanamaVB1
 QatarVB1
 Hoa KỳVB4thVB4th4
  • Chú thích: TK = tứ kết, VB = vòng bảng, 2nd, 3rd, 4th: á quân, hạng ba, hạng tư.

Cúp vô địch[sửa | sửa mã nguồn]

Chiếc cúp vô địch của Copa America.

Chiếc cúp Copa América, được trao cho ĐTQG vô địch giải đấu, đã được trao tặng cho CONMEBOL bởi Bộ Ngoại giao Argentina vào năm 1910, khi Argentina tổ chức một giải để kỷ niệm 100 năm Cách mạng tháng Năm. Giải khi đó (cũng có sự tham gia của Uruguay và Chile) được đặt tên là "Copa del Centenario" (Cúp trăm năm).

Chiếc cúp Copa América hiện tại được mua vào năm 1916 từ "Casa Escasany", một cửa hàng bán đồ trang sức ở Buenos Aires, với giá 3.000 franc Thụy Sĩ.

Chiếc cúp Copa América có trọng lượng 9 kg (20 lb), được làm bằng bạc nguyên chất cao 77 cm (30 inch), với đế bằng gỗ 3 cấp có chứa nhiều mảng. Các tấm mảng được khắc tên các đội tuyển vô địch trong lịch sử.

Vào tháng 4 năm 2016, một chiếc cúp mới – được thiết kế dành riêng cho Copa América Centenario – đã được giới thiệu tại trụ sở Liên đoàn bóng đá Colombia ở Bogota để kỷ niệm 100 năm của giải đấu. Chiếc cúp được dựa trên hình dạng của chiếc cúp Copa América ban đầu, được thêm vào logo giải năm 2016. Nó cao 61 cm (24 inch) với trọng lượng 7,1 kg (16 lb), được mạ vàng nguyên chất 24 cara. Các logo của CONMEBOL và CONCACAF cũng được khắc trên thân của nó.

Chiếc cúp Copa América Centenario 2016 được thiết kế bởi Epico Studios ở Hoa Kỳ và được sản xuất bởi London Work Workshop của Thomas Lyte ở Anh. Chile đã vô địch và được giữ cúp bằng vàng này vĩnh viễn.

Ngoài chiếc cúp chính, "Copa Bolivia" (một chiếc cúp được làm bằng bạc nguyên khối) đã được trao cho á quân của giải kể từ năm 1997[18] – một điều được coi là độc nhất ở các giải đấu bóng đá của thế giới khi mà á quân cũng được cúp. Chiếc cúp được đặt theo tên quốc gia tổ chức Copa América năm 1997, với một lá cờ Bolivian nhỏ được gắn ở một trong các mặt của nó.

Kết quả[sửa | sửa mã nguồn]

Giải vô địch bóng đá Nam Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]

NămChủ nhàXếp hạng chung cuộc
Vô địchÁ quânHạng baHạng tư
1916
Chi tiết
(3)
 Argentina
Uruguay

Argentina

Brasil

Chile
1917
Chi tiết
 Uruguay
Uruguay

Argentina

Brasil

Chile
1919
Chi tiết
 Brasil
Brasil

Uruguay

Argentina

Chile
1920
Chi tiết
 Chile
Uruguay

Argentina

Brasil

Chile
1921
Chi tiết
 Argentina
Argentina

Brasil

Uruguay

Paraguay
1922
Chi tiết
 Brasil
Brasil

Paraguay

Uruguay

Argentina
1923
Chi tiết
 Uruguay
Uruguay

Argentina

Paraguay

Brasil
1924
Chi tiết
 Uruguay
Uruguay

Argentina

Paraguay

Chile
1925
Chi tiết
(1)
 Argentina
Argentina

Brasil

Paraguay
n/a
1926
Chi tiết
 Chile
Uruguay

Argentina

Chile

Paraguay
1927
Chi tiết
 Peru
Argentina

Uruguay

Peru

Bolivia
1929
Chi tiết
 Argentina
Argentina

Paraguay

Uruguay

Peru
1935
Chi tiết
(4)
 Peru
Uruguay

Argentina

Peru

Chile
1937
Chi tiết
 Argentina
Argentina

Brasil

Uruguay

Paraguay
1939
Chi tiết
 Peru
Peru

Uruguay

Paraguay

Chile
1941
Chi tiết
(4)
 Chile
Argentina

Uruguay

Chile

Peru
1942
Chi tiết
 Uruguay
Uruguay

Argentina

Brasil

Paraguay
1945
Chi tiết
(4)
 Chile
Argentina

Brasil

Chile

Uruguay
1946
Chi tiết
(4)
 Argentina
Argentina

Brasil

Paraguay

Uruguay
1947
Chi tiết
 Ecuador
Argentina

Paraguay

Uruguay

Chile
1949
Chi tiết
 Brasil
Brasil

Paraguay

Peru

Bolivia
1953
Chi tiết
 Peru
Paraguay

Brasil

Uruguay

Chile
1955
Chi tiết
 Chile
Argentina

Chile

Peru

Uruguay
1956
Chi tiết
(4)
 Uruguay
Uruguay

Chile

Argentina

Brasil
1957
Chi tiết
 Peru
Argentina

Brasil

Uruguay

Peru
1959
Chi tiết
 Argentina
Argentina

Brasil

Paraguay

Peru
1959
Chi tiết
(4)
 Ecuador
Uruguay

Argentina

Brasil

Ecuador
1963
Chi tiết
 Bolivia
Bolivia

Paraguay

Argentina

Brasil
1967
Chi tiết
 Uruguay
Uruguay

Argentina

Chile

Paraguay

Cúp bóng đá Nam Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]

NămNước chủ nhàChung kếtTranh hạng ba
Vô địchTỷ sốÁ quânHạng 3Tỷ sốHạng 4
1975
Chi tiết
Nhiều quốc gia
Peru
0–1 / 2–0
Play–off 1–0

Colombia
 Brasil
 Uruguay
n/a(2)
1979
Chi tiết
Nhiều quốc gia
Paraguay
3–0 / 0–1
Play–off 0–0 (h.p.)

Chile
 Brasil
 Peru
n/a(2)
1983
Chi tiết
Nhiều quốc gia
Uruguay
2–0 / 1–1
Brasil
 Paraguay
 Peru
n/a(2)
1987
Chi tiết
 Argentina
Uruguay
1–0
Chile

Colombia
2–1
Argentina
1989
Chi tiết
 Brasil
Brasil
1–0
Uruguay

Argentina
0–0
Paraguay
1991
Chi tiết
 Chile
Argentina
3–2
Brasil

Chile
1–1
Colombia
1993
Chi tiết
 Ecuador
Argentina
2–1
México

Colombia
1–0
Ecuador
1995
Chi tiết
 Uruguay
Uruguay
1–1 (h.p.)
(5–3) (11m)

Brasil

Colombia
4–1
Hoa Kỳ
1997
Chi tiết
 Bolivia
Brasil
3–1
Bolivia

México
1–0
Peru
1999
Chi tiết
 Paraguay
Brasil
3–0
Uruguay

México
2–1
Chile
2001
Chi tiết
 Colombia
Colombia
1–0
México

Honduras
2–2
(5–4) (11m)

Uruguay
2004
Chi tiết
 Peru
Brasil
2–2 (h.p.)
(4–2) (11m)

Argentina

Uruguay
21
Colombia
2007
Chi tiết
 Venezuela
Brasil
3–0
Argentina

México
31
Uruguay
2011
Chi tiết
 Argentina
Uruguay
3–0
Paraguay

Peru
4–1
Venezuela
2015
Chi tiết
 Chile
Chile
0–0 (h.p.)
(4–1) (11m)

Argentina

Peru
2–0
Paraguay
2016
Chi tiết
 Hoa Kỳ
Chile
0–0 (h.p.)
(4–2) (11m)

Argentina

Colombia
1–0
Hoa Kỳ
2019
Chi tiết
 Brasil[a]
Brasil
3–1
Peru

Argentina
2–1
Chile
2021
Chi tiết

Argentina
1–0
Brasil

Colombia
3–2
Peru
2024
Chi tiết
 Hoa Kỳ

(Các đội mời được in nghiêng)

1 Chỉ có 3 đội tham dự.
2 Đồng giải ba (không thi đấu).

Các đội từng đạt đến hạng tư[sửa | sửa mã nguồn]

Đội tuyểnVô địchÁ quânHạng baHạng tư
 Argentina15 (1921*, 1925*, 1927, 1929*, 1937*, 1941, 1945, 1946*, 1947, 1955, 1957, 1959 (Argentina)*, 1991, 1993, 2021)14 (1916*, 1917, 1920, 1923, 1924, 1926, 1935, 1942, 1959 (Ecuador), 1967, 2004, 2007, 2015, 2016)5 (1919, 1956, 1963, 1989, 2019)2 (1922, 1987*)
 Uruguay15 (1916, 1917*, 1920, 1923*, 1924*, 1926, 1935, 1942*, 1956*, 1959 (Ecuador), 1967*, 1983, 1987, 1995*, 2011)6 (1919, 1927, 1939, 1941, 1989, 1999)9 (1921, 1922, 1929, 1937, 1947, 1953, 1957, 1975, 2004)5 (1945, 1946, 1955, 2001, 2007)
 Brasil9 (1919*, 1922*, 1949*, 1989*, 1997, 1999, 2004, 2007, 2019*)12 (1921, 1925, 1937, 1945, 1946, 1953, 1957, 1959 (Argentina), 1983, 1991, 1995, 2021*)7 (1916, 1917, 1920, 1942, 1959 (Ecuador), 1975, 1979)3 (1923, 1956, 1963)
 Paraguay2 (1953, 1979)6 (1922, 1929, 1947, 1949, 1963, 2011)7 (1923, 1924, 1925, 1939, 1946, 1959 (Argentina), 1983)6 (1921, 1926, 1937, 1942, 1967, 1989, 2015)
 Chile2 (2015*, 2016)4 (1955*, 1956, 1979, 1987)5 (1926*, 1941*, 1945*, 1967, 1991*)11 (1916, 1917, 1919, 1920*, 1924, 1935, 1939, 1947, 1953, 1999, 2019)
 Peru2 (1939*, 1975)1 (2019)8 (1927*, 1935*, 1949, 1955, 1979, 1983, 2011, 2015)7 (1929, 1941, 1957*, 1959 (Argentina), 1997, 2021)
 Colombia1 (2001*)1 (1975)5 (1987, 1993, 1995, 2016, 2021)2 (1991, 2004)
 Bolivia1 (1963*)1 (1997*)2 (1927, 1949)
 México^2 (1993, 2001)3 (1997, 1999, 2007)
 Honduras^1 (2001)
 Ecuador2 (1959 (Ecuador)*, 1993*)
 Hoa Kỳ^2 (1995, 2016)
 Venezuela1 (2011)
*=Chủ nhà
^=Khách mời

Kết quả của các nước chủ nhà[sửa | sửa mã nguồn]

NămNước đăng caiChung kết
1916 ArgentinaÁ quân
1917 UruguayVô địch
1919 BrasilVô địch
1920 ChileHạng tư
1921 ArgentinaVô địch
1922 BrasilVô địch
1923 UruguayVô địch
1924 UruguayVô địch
1925 ArgentinaVô địch
1926 ChileHạng ba
1927 PeruHạng ba
1929 ArgentinaVô địch
1935 PeruHạng ba
1937 ArgentinaVô địch
1939 PeruVô địch
1941 ChileHạng ba
1942 UruguayVô địch
1945 ChileHạng ba
1946 ArgentinaVô địch
1947 EcuadorHạng 6
1949 BrasilVô địch
1953 PeruHạng 5
1955 ChileÁ quân
1956 UruguayVô địch
1957 PeruHạng tư
1959 ArgentinaVô địch
1959 EcuadorHạng tư
1963 BoliviaVô địch
1967 UruguayVô địch
1987 ArgentinaVô địch
1989 BrasilVô địch
1991 ChileHạng ba
1993 EcuadorHạng 4
1995 UruguayVô địch
1997 BoliviaÁ quân
1999 ParaguayTứ kết
2001 ColombiaVô địch
2004 PeruTứ kết
2007 VenezuelaTứ kết
2011 ArgentinaTứ kết
2015 ChileVô địch
2016 Hoa KỳHạng tư
2019 BrasilVô địch
2021 BrasilÁ quân
2024 Hoa KỳCXĐ

Kết quả của các nhà đương kim vô địch[sửa | sửa mã nguồn]

NămĐương kim vô địchChung kết
1917 UruguayVô địch
1919 UruguayÁ quân
1920 BrasilHạng ba
1921 UruguayHạng ba
1922 ArgentinaHạng tư
1923 BrasilHạng tư
1924 BrasilVô địch
1925 BrasilVô địch
1926 ArgentinaÁ quân
1927 UruguayÁ quân
1929 ArgentinaVô địch
1935 ArgentinaÁ quân
1937 UruguayVô địch
1939 ArgentinaBỏ cuộc
1941 PeruHạng tư
1942 ArgentinaÁ quân
1945 UruguayHạng tư
1946 ArgentinaVô địch
1947 ArgentinaVô địch
1949 ArgentinaBỏ cuộc
1953 BrasilÁ quân
1955 ParaguayHạng 5
1956 ArgentinaHạng ba
1957 UruguayHạng ba
1959 ArgentinaVô địch
1959 ArgentinaVô địch
1963 UruguayBỏ cuộc
1967 BoliviaHạng 6
1975 UruguayHạng 4
1979 PeruHạng 4
1983 ParaguayHạng ba
1987 UruguayVô địch
1989 UruguayÁ quân
1991 BrasilÁ quân
1993 ArgentinaVô địch
1995 ArgentinaTứ kết
1997 UruguayVòng bảng
1999 BrasilVô địch
2001 BrasilTứ kết
2004 ColombiaHạng 4
2007 BrasilVô địch
2011 BrasilTứ kết
2015 UruguayTứ kết
2016 ChileVô địch
2019 ChileHạng 4
2021 BrasilÁ quân
2024 ArgentinaCXĐ

Giải thưởng[sửa | sửa mã nguồn]

Cầu thủ xuất sắc nhất giải[sửa | sửa mã nguồn]

NămCầu thủ
1916Uruguay Isabelino Gradín
1917Uruguay Héctor Scarone
1919Brasil Arthur Friedenreich
1920Uruguay José Piendibene
1921Argentina Américo Tesoriere
1922Brasil Agostinho Fortes Filho
1923Uruguay José Nasazzi
1924Uruguay Pedro Petrone
1925Argentina Manuel Seoane
1926Uruguay José Leandro Andrade
1927Argentina Manuel Seoane
1929Argentina Manuel Ferreira
1935Uruguay José Nasazzi
1937Argentina Vicente de la Mata
1939Peru Teodoro Fernández
1941Chile Sergio LivinVBtone
1942Uruguay Obdulio Varela
1945Brasil Domingos da Guia
1946Argentina Adolfo Pedernera
1947Argentina José Manuel Moreno
1949Brasil Ademir
1953Paraguay Heriberto Herrera
1955Chile Enrique Hormazábal
1956Uruguay Óscar Míguez
1957Argentina Omar Sívori
1959Brasil Pelé
1959Uruguay Alcides Silveira
1963Bolivia Ramiro Blacut
1967Uruguay Pedro Rocha
1975Peru Teófilo Cubillas
1979Chile Carlos Caszely
1983Uruguay Enzo Francescoli
1987Colombia Carlos Valderrama
1989Uruguay Rubén Sosa
1991Argentina Leonardo Rodríguez
1993Argentina Sergio Goycochea
1995Uruguay Enzo Francescoli
1997Brasil Ronaldo
1999Brasil Rivaldo
2001Honduras Amado Guevara
2004Brasil Adriano
2007Brasil Robinho
2011Uruguay Luis Suárez
2015Argentina Lionel Messi
2016Chile Alexis Sánchez
2019Brasil Daniel Alves
2021Argentina Lionel Messi
Brasil Neymar

Vua phá lưới[sửa | sửa mã nguồn]

NămCầu thủSố bàn
thắng
1916Uruguay Isabelino Gradín3
1917Uruguay Ángel Romano4
1919Brasil Arthur Friedenreich4
Brasil Neco
1920Uruguay José Pérez3
Uruguay Ángel Romano
1921Argentina Julio Libonatti3
1922Argentina Julio Francia4
1923Argentina Vicente Aguirre3
Uruguay Pedro Petrone
1924Uruguay Pedro Petrone4
1925Uruguay Manuel Seoane6
1926Chile David Arellano7
1927Argentina Alfredo Carricaberry3
Argentina Segundo Luna
Uruguay Roberto Figueroa
Uruguay Pedro Petrone
Uruguay Héctor Scarone
1929Paraguay Aurelio González5
1935Argentina Herminio Masantonio4
1937Chile Raúl Toro Julio7
1939Peru Teodoro Fernández7
1941Argentina Juan Marvezzi5
1942Argentina Herminio Masantonio7
Argentina José Manuel Moreno
1945Argentina Norberto Méndez6
Brasil Heleno de Freitas
1946Uruguay José María Medina7
1947Uruguay Nicolás Falero8
1949Brasil Jair da Rosa Pinto9
1953Chile Francisco Molina7
1955Argentina Rodolfo Micheli8
1956Chile Enrique Hormazábal4
1957Argentina Humberto Maschio9
Uruguay Javier Ambrois
1959Brasil Pelé8
1959Argentina José Sanfilippo6
1963Ecuador Carlos Alberto Raffo6
1967Argentina Luis Artime5
1975Argentina Leopoldo Luque4
Colombia Ernesto Díaz
1979Chile Jorge Peredo4
Paraguay Eugenio Morel
1983Argentina Jorge Burruchaga3
Brasil Roberto Dinamite
Uruguay Carlos Aguilera
1987Colombia Arnoldo Iguarán4
1989Brasil Bebeto6
1991Argentina Gabriel Batistuta6
1993Venezuela José Luis Dolgetta4
1995Argentina Gabriel Batistuta4
México Luis García
1997México Luis Hernández6
1999Brasil Rivaldo5
Brasil Ronaldo
2001Colombia Víctor Aristizábal6
2004Brasil Adriano7
2007Brasil Robinho6
2011Peru Paolo Guerrero5
2015Chile Eduardo Vargas4
Peru Paolo Guerrero
2016Chile Eduardo Vargas6
2019Brasil Everton Soares3
Peru Paolo Guerrero
2021Argentina Lionel Messi4
Colombia Luis Díaz

Thống kê theo số trận thắng[sửa | sửa mã nguồn]

Tính đến mùa giải 2021.

Chú thích
Đội vô địch Copa América
ĐộiĐiểmSố trậnThắngHòaThuaBàn thắngBàn thuaHiệu số
1 Argentina4232021274233474182+292
2 Uruguay3742051123855410221+189
3 Brasil3621911083845430204+226
4 Paraguay253177644370264303−39
5 Chile234188673388291316−25
6 Peru213161583964230255−25
7 Colombia172124492550142191−49
8 Bolivia86119202673107298−191
9 Ecuador74126162684134327−193
10 México70481913166662+4
11 Venezuela41708174549177−128
12 Costa Rica18175391731–14
13 Hoa Kỳ171852111829–11
14 Honduras10631275+2
15 Panama33102410–6
16 Nhật Bản36033615–9
17 Qatar1301225–3
18 Jamaica0600609–9
19 Haiti03003112–11

Các huấn luyện viên vô địch[sửa | sửa mã nguồn]

NămHuấn luyện viênVô địch
1916Uruguay Alfredo Foglino Uruguay
1917Uruguay Ramón Platero Uruguay
1919Brasil Haroldo Domingues Brasil
1920Uruguay Ernesto Fígoli Uruguay
1921Argentina Pedro Calomino Argentina
1922Brasil Laís Brasil
1923Uruguay Leonardo De Lucca Uruguay
1924Uruguay Ernesto Meliante Uruguay
1925Argentina Américo Tesoriere Argentina
1926Uruguay Ernesto Fígoli Uruguay
1927Argentina José Lago Millón Argentina
1929Argentina Fransisco Olazar Argentina
1935Uruguay Raúl V. Blanco Uruguay
1937Argentina Manuel Seoane Argentina
1939Anh Jack Greenwell Peru
1941Argentina Guillermo Stábile Argentina
1942Uruguay Pedro Cea Uruguay
1945Argentina Guillermo Stábile Argentina
1946Argentina Guillermo Stábile Argentina
1947Argentina Guillermo Stábile Argentina
1949Brasil Flávio Costa Brasil
1953Paraguay Manuel Fleitas Solich Paraguay
1955Argentina Guillermo Stábile Argentina
1956Uruguay Hugo Bagnulo Uruguay
1957Argentina Guillermo Stábile Argentina
1959Argentina Victorio Spinetto Argentina
1959Uruguay Juan Carlos Corazzo Uruguay
1963Brasil Danilo Alvim Bolivia
1967Uruguay Juan Carlos Corazzo Uruguay
1975Peru Marcos Calderón Peru
1979Paraguay Ranulfo Miranda Paraguay
1983Uruguay Omar Borrás Uruguay
1987Uruguay Roberto Fleitas Uruguay
1989Brasil Sebastião Lazaroni Brasil
1991Argentina Alfio Basile Argentina
1993Argentina Alfio Basile Argentina
1995Uruguay Héctor Núñez Uruguay
1997Brasil Mário Zagallo Brasil
1999Brasil Vanderlei Luxemburgo Brasil
2001Colombia Francisco Maturana Colombia
2004Brasil Carlos Alberto Parreira Brasil
2007Brasil Dunga Brasil
2011Uruguay Óscar Tabárez Uruguay
2015Argentina Jorge Sampaoli Chile
2016Tây Ban Nha Juan Antonio Pizzi Chile
2019Brasil Tite Brasil
2021Argentina Lionel Scaloni Argentina

Kỷ lục[sửa | sửa mã nguồn]

Theo đội tuyển[sửa | sửa mã nguồn]

  • Vô địch nhiều nhất: Uruguay & Argentina – 15 lần
  • Tham dự nhiều nhất: Uruguay – 45 lần
  • Thi đấu nhiều trận nhất: Uruguay – 197 trận
  • Vào chung kết nhiều nhất: Argentina – 29 lần
  • Thắng nhiều trận nhất: Argentina – 123 trận
  • Ghi nhiều bàn thắng nhất: Argentina – 455 bàn
  • Hiệu suất bàn thắng nhiều nhất: Argentina – 2,41 bàn/trận
  • ĐTQG duy nhất vô địch 3 lần liên tiếp: Argentina (1945, 1946, 1947)
  • ĐTQG vào chung kết nhiều lần liên tiếp nhất: Argentina (8 lần)
  • ĐTQG thất bại đậm nhất lịch sử: Ecuador 0–12 Argentina
  • ĐTQG bị thủng lưới nhiều nhất lịch sử: Ecuador – 311 bàn

Theo cầu thủ[sửa | sửa mã nguồn]

  • Cầu thủ ghi nhiều bàn nhất 1 kỳ Copa: Jair Da Rosa (Brasil), Humberto Maschio (Argentina), Javier Ambrois (Uruguay) – cùng 9 bàn
  • Cầu thủ ghi nhiều bàn nhất trong 1 trận đấu: Scarone, Marvezzi, Evaristo – cùng ghi được 5 bàn
  • Tay săn bàn vĩ đại nhất lịch sử Copa: Norberto Mendez (Argentina), Zizinho (Brasil) – cùng 17 bàn
  • Cầu thủ đá hỏng phạt đền nhiều nhất trong một trận: Martin Palermo (Argentina) tại Copa 1999 – đá hỏng 3 quả trong 1 trận đấu

Kỷ lục khác[sửa | sửa mã nguồn]

  • HLV tham dự nhiều kỳ Copa nhất: Guillermo Stabile – 6 lần
  • Siêu kinh điển của Copa America không phải Argentina gặp Brasil mà là Uruguay gặp Argentina trong 12 trận chung kết
  • Copa America là giải đấu bóng đá dành cho ĐTQG lâu đời nhất hành tinh, với lịch sử 105 năm.

Ghi chú[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ Mùa giải năm 2020 dự kiến diễn ra tại ArgentinaColombia, Tuy nhiên, tháng 5/2021, Colombia phải huỷ đăng cai vì vấn đề chính trị, sau đó Argentina cũng phải huỷ đăng cai vì vấn đề đại dịch COVID-19, sau đó quyền đăng cai mùa giải sẽ là Brasil.

Tham khảo[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ “X Campeonato Sud Americano de Football”. biblioteca.afa.org.ar. Truy cập 27 Tháng hai năm 2015.
  2. ^ a b “The oldest main continental tournament in the world”. CONMEBOL.com. Bản gốc lưu trữ 21 Tháng hai năm 2014. Truy cập 3 Tháng tư năm 2014.
  3. ^ “CONCACAF and CONMEBOL Announce Agreement to Bring Copa America 2016 to the United States”. CONCACAF.com. 1 tháng 5 năm 2014. Bản gốc lưu trữ 28 Tháng sáu năm 2019. Truy cập 24 Tháng mười hai năm 2022.
  4. ^ “Copa América: History”. CONMEBOL. Truy cập 27 Tháng hai năm 2015.
  5. ^ “Teams | COPA America Centenario | USA 2016”. Bản gốc lưu trữ 22 tháng Năm năm 2016. Truy cập 22 tháng Năm năm 2016.
  6. ^ “Truyền thông Argentina đưa đậm nét về ý nghĩa Cách mạng tháng Tám”.
  7. ^ “Campeonato de la Asociación Argentina de Football 1916”.
  8. ^ “Trang web chính thức của Liên đoàn bóng đá Nam Mỹ”.
  9. ^ “Copa America có thể sáp nhập với Gold Cup”.
  10. ^ “Nên sáp nhập Gold Cup với Copa America?”.
  11. ^ “Argentina and Colombia là chủ nhà của Copa America 2020”.
  12. ^ “Tước quyền hai đồng chủ nhà, Copa America 2021 chuyển đến Brazil”. Người Lao Động. 1 tháng 6 năm 2021.
  13. ^ “Brazil đăng cai Copa America thay Colombia và Argentina”. Tuổi Trẻ Online. 1 tháng 6 năm 2021.
  14. ^ “Các ngôi sao tẩy chay, Copa America 2021 đứng trước nguy cơ bị hủy”. Tuổi Trẻ Online. 5 tháng 6 năm 2021.
  15. ^ “[流言板]遗憾!赛程撞车,足协忍痛放弃美洲杯”. Hupu. Lưu trữ bản gốc |url lưu trữ= cần |ngày lưu trữ= (trợ giúp).
  16. ^ “Football Australia confirms Socceroos' withdrawal from Copa America”. Football Australia. 24 tháng 2 năm 2021.
  17. ^ “Qatar not to feature in Copa America 2021”. Qatar Football Association. 23 tháng 2 năm 2021.
  18. ^ "'Bolivia' para el segundo", Correo del Sur, ngày 4 tháng 7 năm 2015

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%BAp_b%C3%B3ng_%C4%91%C3%A1_Nam_M%E1%BB%B9