Wiki - KEONHACAI COPA

Các vụ thảm sát chống Cộng sản

Các vụ thảm sát chống Cộng sản là các vụ giết hại hàng loạt người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản, người bị cáo buộc là Đảng viên cộng sản, hoặc những người ủng hộ họ, được thực hiện bởi các chế độ cánh hữu, độc tài, phong kiến, phát xít... đã diễn ra trên khắp thế giới từ đầu thế kỷ 20.

Khủng bố trắng[sửa | sửa mã nguồn]

Khủng bố trắng là thuật ngữ được sử dụng trong Cách mạng Pháp năm 1795 để biểu thị bạo lực phản cách mạng xảy ra tự phát. Kể từ đó, các nhà sử học và các nhóm cá nhân đều sử dụng thuật ngữ Khủng bố trắng để chỉ bạo lực phản cách mạng phối hợp theo nghĩa rộng hơn. Trong lịch sử, nhiều nhóm Khủng bố trắng đã đàn áp, tấn công và giết chết những người cộng sản hoặc được cho là cộng sản và những người ủng hộ cộng sản như một phần của chương trình phản cách mạng và chống cộng sản.

Tại Châu Mỹ[sửa | sửa mã nguồn]

Argentina - Chiến tranh bẩn thỉu[sửa | sửa mã nguồn]

"Chiến tranh bẩn thỉu" (Dirty War) đề cập đến phong trào bạo lực do nhà nước bảo trợ chống lại công dân Argentina từ khoảng năm 1976-1983 thực hiện chủ yếu bởi chính phủ độc tài của Jorge Rafael Videla.

Bắt đầu từ năm 1976, đợt thanh trừng được lãnh đạo bởi Videla cho đến năm 1981, và sau đó bởi Roberto Viola và Leopoldo Galtieri, đã tiến hành những vụ bắt giữ bất hợp pháp, tra tấn, thậm chí là giết hoặc làm mất tích hàng ngàn người, chủ yếu là công đoàn viên, sinh viên và các nhà hoạt động theo hoặc được cho là theo chủ nghĩa cộng sản hoặc cánh tả. Chế độ quân phiệt của Videla gọi điều này là "quá trình tái cơ cấu Quốc gia".

Lên đến 30.000 người đã bị mất tích trong thời gian này.[1] Lực lượng an ninh Argentina và quân đội cũng đã cộng tác với các chế độ độc tài khác ở Nam Mỹ. Chiến dịch này là một phần của một chiến dịch chống cộng rộng lớn hơn được gọi là Chiến dịch Condor (hay còn gọi là "Chiến dịch Kền kền khoang", Operacion Condor), liên quan đến việc đàn áp và ám sát hàng ngàn nhà bất đồng chính kiến cánh tả bị cáo buộc là cộng sản bởi các cơ quan tình báo phối hợp của các quốc gia Nam Mỹ, do nhà độc tài của Chile, Augusto Pinochet cầm đầu và được hỗ trợ bởi Hoa Kỳ[2][3][4]

Một tòa án Argentina sau đó đã lên án tội ác của chính phủ như là tội ác chống lại nhân loại và tội diệt chủng.[5]

El Salvador[sửa | sửa mã nguồn]

Thảm sát nông dân El Salvador 1932[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 1932, một cuộc nổi dậy do những người cộng sản lãnh đạo chống lại chính phủ độc tài Maximiliano Hernández Martínez đã bị đàn áp dã man, dẫn đến cái chết của 30.000 nông dân.[6]

Nội chiến El Salvador[sửa | sửa mã nguồn]

Nội chiến El Salvador (1979 - 1992) là một cuộc xung đột giữa chính phủ quân phiệt El Salvador và liên minh gồm năm tổ chức du kích cánh tả được gọi chung là Mặt trận giải phóng dân tộc Farabundo Martí (FMLN). Một cuộc đảo chính vào ngày 15 tháng 10 năm 1979 đã dẫn đến việc giết chết những người biểu tình bởi các đội quân của chính phủ và nó được coi là điểm bùng phát cho cuộc nội chiến.[7]

Đến tháng 1 năm 1980, các tổ chức chính trị cánh tả thống nhất thành lập Các nhà cách mạng phối hợp của quần chúng (CRM). Vài tháng sau, các nhóm vũ trang cánh tả thống nhất thành lập Tổng cục Cách mạng Thống nhất (DRU). Nó được đổi tên thành FMLN[8] sau khi sáp nhập với Đảng Cộng sản vào tháng 10 năm 1980.

Cuộc nội chiến này kéo dài hơn 12 năm và chứng kiến bạo lực cực đoan từ cả hai phía. Nó cũng bao gồm việc cố tình khủng bố và nhắm mục tiêu vào dân thường bởi các đội tử thần, tuyển dụng binh lính trẻ em và các vi phạm khác về nhân quyền, chủ yếu là của quân đội chính phủ.[9] Một số lượng người không xác định đã "biến mất" trong cuộc xung đột và Liên Hợp Quốc báo cáo rằng hơn 75.000 người đã thiệt mạng.[10] Hoa Kỳ đã góp phần vào cuộc xung đột bằng cách cung cấp một lượng lớn viện trợ quân sự cho chính phủ El Salvador dưới thời Tổng thống Mỹ Jimmy Carter[11] và Tổng thống Ronald Reagan.

Chile[sửa | sửa mã nguồn]

"Lữ đoàn tử thần" (Caravan of Death) là một chiến dịch do một quân đội tiến hành, sau cuộc đảo chính Chile năm 1973, ra lệnh tiến hành hành quyết ít nhất 75 cá nhân trong Quân đội [12] Theo tổ chức phi chính phủ Justicia Memorial, quân đội đã giết 26 người ở miền Nam và 71 ở miền Bắc, tổng cộng lên đến 97 nạn nhân [13] Sau đó, Augusto Pinochet đã bị truy tố trong tháng 12 năm 2002 vì vụ việc này, nhưng ông ta qua đời bốn năm sau đó mà không hề bị phán xét. Tuy nhiên, tháng 9 năm 2007, nhiều sĩ quan quân đội khác và một giáo sĩ cựu quân nhân đã bị truy tố.

Ngoài ra, trong những ngày ngay sau cuộc đảo chính Chile đảo chính 1973, sân vận động quốc gia được sử dụng như một trại tập trung nắm giữ khoảng 40.000 tù nhân.[14] Một số trường hợp nổi tiếng nhất của "desaparecidos" là Charles Horman, một công dân Hoa Kỳ đã thiệt mạng trong cuộc đảo chính này,[15] Nhạc sĩ Chile Víctor Jara,cho biết nơi ít nhất có 70 người đã thiệt mạng.[16] Trong ba tháng đầu tiên sau cuộc đảo chính, số lượng người cánh tả được nghi ngờ bị giết hoặc "biến mất" (desaparecidos) sớm đạt vào con số hàng ngàn [17].

Sau thất bại Pinochet trong đơt trưng cầu dân ý năm 1988, năm 1991 Ủy ban Rettig, một nỗ lực đa bên từ chính quyền Patricio Aylwin để khám phá sự thật về những vi phạm nhân quyền, liệt kê một số bị tra tấn và các trung tâm giam giữ (như Colonia Dignidad, Colonia Dignidad, The ship Esmeralda hay Víctor Jara Stadium), và thấy rằng ít nhất 3.000 người đã thiệt mạng hoặc mất tích.

Guatemala[sửa | sửa mã nguồn]

Thảm sát, cưỡng bức mất tích, tra tấn và hành quyết quân du kích và đặc biệt là cộng tác viên dân sự của những người cộng sản (Đội quân du kích của người nghèo) dưới bàn tay của lực lượng an ninh do Hoa Kỳ hậu thuẫn đã lan rộng từ năm 1965. là chính sách lâu đời của chế độ quân sự và được các quan chức Hoa Kỳ biết đến.[18] Một báo cáo từ năm 1984 đã thảo luận về "những vụ giết hàng nghìn người bởi một chính phủ quân sự duy trì quyền lực của mình bằng khủng bố".[19] Tổ chức Theo dõi Nhân quyền đã mô tả các hành động cực kỳ tàn ác của các lực lượng vũ trang, chủ yếu là chống lại dân thường không có vũ khí.

Cuộc đàn áp đã đạt đến mức độ diệt chủng ở các tỉnh phía bắc chủ yếu là người bản địa nơi du kích của Đội quân du kích của người nghèo hoạt động. Tại đó, quân đội Guatemala coi người Maya là những người hỗ trợ du kích và bắt đầu chiến dịch trừ khử những người Maya được cho là "tiếp tay cho Cộng sản". Ước tính khoảng 200.000 thường dân Guatemala đã thiệt mạng trong khi các cuộc tàn sát nông dân bản địa đã xảy ra trước đó trong cuộc chiến, việc sử dụng khủng bố có hệ thống chống lại người bản địa bắt đầu vào khoảng năm 1975 và đạt đỉnh điểm trong nửa đầu những năm 1980 trong Nội chiến Guatemala, 93% do lực lượng chính phủ, bao gồm ít nhất 40.000 người đã "biến mất". Trong số 42.275 trường hợp giết người và "mất tích" do CEH ghi lại, 83% nạn nhân là người Maya và 17% là Ladino, có nghĩa là bằng cách áp dụng các tỷ lệ này cho ước tính 200.000 thường dân đã bị giết và biến mất trong nội chiến Guatemala. Tổng thể có thể suy ra rằng có tới 166.000 người Maya và 34.000 người Ladino đã bị giết hoặc biến mất trong cuộc diệt chủng này.[20]

Châu Á[sửa | sửa mã nguồn]

Trung Hoa Dân Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Chính biến Thượng Hải[sửa | sửa mã nguồn]

Quân chính phủ Quốc dân đảng bắt giữ những người bị buộc tội là đảng viên Cộng sản.

Tưởng Giới Thạch sau thời gian ở Liên Xô đã trở nên căm ghét chủ nghĩa cộng sản. Ông hủy bỏ chính sách Liên minh với Nga của Tôn Trung Sơn. Ngày 12 tháng 4 năm 1927, sự kiện Tứ Nhất Nhị bùng phát tại Thượng Hải khi Tưởng Giới Thạch phát động chính biến tiêu diệt các đảng viên cộng sản, gọi là Thảm sát Thượng Hải[21][22]. Sau vụ việc, Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch đã tiến hành một cuộc thanh trừng toàn diện những người cộng sản ở tất cả các khu vực dưới sự kiểm soát của họ, và thậm chí sự tàn sát dữ dội hơn đã xảy ra ở các thành phố như Quảng ChâuTrường Sa[23]. Cuộc thanh trừng đã dẫn đến một sự chia rẽ công khai giữa cánh tả và cánh hữu của Quốc dân đảng, với Tưởng Giới Thạch tự đặt mình là thủ lĩnh của phe cánh hữu tại Nam Kinh để đối lập với chính phủ Quốc Dân Đảng cánh tả ban đầu do Uông Tinh Vệ đứng đầu ở Vũ Hán.

Trước rạng sáng ngày 12 tháng 4, thành viên các băng đảng do Quốc dân đảng chỉ huy đã bắt đầu tấn công các văn phòng do các nhân viên công đoàn kiểm soát, bao gồm tại Áp Bắc, Nãn Si và Phố Đông. Theo sắc lệnh khẩn cấp, Tưởng Giới Thạch đã ra lệnh cho Quân đoàn 26 tấn công dân quân của công nhân, khiến hơn 300 người thiệt mạng và bị thương. Các công nhân công đoàn đã tổ chức một cuộc họp quần chúng để tố cáo Tưởng vào ngày 13 tháng 4 và hàng ngàn công nhân và sinh viên đã đến trụ sở của Sư đoàn 2 của Quân đoàn 26 để phản đối. Các binh sĩ đã nổ súng, giết chết 100 người và làm nhiều người khác bị thương. Tưởng đã giải tán chính phủ lâm thời Thượng Hải, tấn công các công đoàn lao động và tất cả các tổ chức khác dưới sự kiểm soát của Đảng Cộng sản. Hơn 1.000 người cộng sản đã bị bắt, khoảng 300 người đã bị xử tử và hơn 5.000 người mất tích.[24]

Chính phủ Quốc dân đảng tại Vũ Hán của Uông Tinh Vệ cũng bắt đầu thanh trừng dữ dội những người Cộng sản. Hơn 10.000 người cộng sản ở Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba, Nam Kinh, Hàng Châu và Trường Sa đã bị bắt và xử tử trong vòng 20 ngày. Liên Xô chính thức chấm dứt hợp tác với Quốc dân đảng. Chính phủ Quốc gia Vũ Hán sớm tan rã, để Tưởng Giới Thạch trở thành nhà lãnh đạo duy nhất của Quốc dân đảng. Trong một năm, hơn 300.000 người đã bị giết trên khắp Trung Quốc trong các chiến dịch tàn sát đảng viên Cộng sản do Quốc Dân Đảng thực hiện.[25]

Nội chiến Trung Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Trong cuộc nội chiến, Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch đã giết chết 1.131.000 binh sĩ trước khi tham chiến trong các chiến dịch bắt buộc. Ngoài ra, phe Quốc dân đảng đã tàn sát trên 1 triệu dân thường trong cuộc nội chiến.[26]

Chính biến 228 và Khủng bố trắng ở Đài Loan[sửa | sửa mã nguồn]

Lúc 8h sáng ngày 18 tháng 3 năm 1946, Tưởng Kinh Quốc đến Cơ Long, lần đầu tiên đặt chân lên đất Đài Loan, do Tư lệnh Sử Hoành Hi đi cùng thị sát[27]:8315. Tháng 2 năm 1947, Tưởng Giới Thạch tuần thị Từ Châu, Trịnh Châu, đều trở về Nam Kinh trong ngày; ngày 28 tháng 2, Đài Loan phát sinh sự kiện náo loạn. Mâu thuẫn được châm ngòi vào ngày 27/2/1947 khi cảnh sát bắn chết một phụ nữ trong chiến dịch truy quét thuốc lá lậu. Tưởng Giới Thạch tuyên bố phương châm xử lý là không khoan nhượng[28]:50 và gửi lực lượng đến hỗ trợ toàn quyền Đài Loan Trần Nghi trấn áp các cuộc nổi dậy.

Trong cuộc trấn áp, quân đội Tưởng Giới Thạch đã thảm sát hàng chục ngàn người. Sau khi hoàn thành việc tái chiếm Đài Loan, Toàn quyền Trần Nghi tiến hành một chiến dịch thanh trừng đẫm máu với việc bắt giữ, tra tấn và cả thủ tiêu bất cứ ai nghi vấn tham gia làm loạn hay có hành động chống lại Quốc dân đảng. Các trường học có sinh viên, học sinh tham gia làm loạn đều bị đóng cửa vô thời hạn. Sinh viên, học sinh tham gia làm loạn đều bị bắt giữ, tra tấn, xử tù và thủ tiêu. Doanh nhân, công nhân tham gia làm loạn cũng chịu chung số phận. Tài sản của họ đều bị tịch thu, cha mẹ, con cái đều bị quản thúc.

Đến ngày nay, vẫn chưa có thống kê chính xác về số người thiệt mạng trong các cuộc trấn áp và truy quét, ước chừng từ 18.000 - 28.000 người, có số liệu khác cho rằng số người thiệt mạng là hơn 30.000 người. Tưởng Giới Thạch có ra lệnh tàn sát dân chúng hay không vẫn luôn là câu hỏi của nhiều người. Sự kiện này được lịch sử ghi lại bằng cái tên "Sự kiện 28 tháng 2"[29]

Đông Timor[sửa | sửa mã nguồn]

Bằng cách phát đi những lời buộc tội các nhà lãnh đạo Mặt trận cách mạng vì một Đông Timor độc lập là Cộng sản và gieo rắc bất hòa trong Liên minh Dân chủ Timor, chính phủ Indonesia đã thúc đẩy sự bất ổn ở Đông Timor và theo các nhà quan sát, đó là cái cớ để Indonesia xâm chiếm vùng này.[30] Trong quá trình Indonesian xâm chiếm Đông Timor và áp đặt sự chiếm đóng, quân đội Indonesian đã giết hại hoặc làm chết đói 150.000 người Đông Timor, tương đương 1/5 dân số của vùng này[31][32][33]. Đại học Oxford đã tổ chức một sự đồng thuận học thuật gọi đây là cuộc diệt chủng Đông TimorĐại học Yale đã giảng dạy nó như là một phần của chương trình Nghiên cứu diệt chủng của trường này.[34][35]

Indonesia[sửa | sửa mã nguồn]

Những vụ thanh trừng tại Indonesia 1965-1966 là một cuộc thanh trừng chống cộng sản sau một cuộc đảo chính không thành ở thủ đô Jakarta, Indonesia, sau này bị đổ lỗi cho Đảng Cộng sản Indonesia (PKI). Ước tính được chấp nhận rộng rãi nhất là hơn nửa triệu người đã thiệt mạng. Các cuộc thanh trừng là một sự kiện quan trọng trong quá trình chuyển đổi các "thứ tự mới"; Đảng Cộng sản Indonesia (PKI) đã bị loại bỏ như là một lực lượng chính trị và các biến động dẫn đến các sự sụp đổ của Tổng thống Sukarno, và bắt đầu thời kỳ cầm quyền 30 năm của tổng thống Suharto.

Các vụ thanh trừng đều đã bỏ qua trong hầu hết các sách lịch sử của Indonesia, và đã nhận được tương đối ít sự chú ý của quốc tế. Giải thích thỏa đáng cho các quy mô và điên cuồng của bạo lực đã thách thức các học giả từ tất cả các quan điểm ý thức hệ. Khả năng quay trở lại với biến động tương tự được trích dẫn là một yếu tố bảo thủ chính trị "Trật tự mới" chính quyền và kiểm soát chặt chẽ của hệ thống chính trị. Cảnh giác chống lại một mối đe dọa cộng sản nhận thức vẫn còn là một dấu hiệu của tổng thống Suharto trong ba mươi năm. Ở phương Tây, những vụ giết người và những cuộc thanh trừng này ở Indonesia lại được miêu tả như là một "chiến thắng to lớn" đối với phong trào chống cộng vào thời kì đỉnh cao của Chiến tranh Lạnh.

Các vụ thảm sát bắt đầu vào tháng 10 năm 1965 trong những tuần lễ sau các âm mưu đảo chính, và đạt đến đỉnh cao trong phần còn lại của năm trước khi chuyển qua những tháng đầu năm 1966. Các cuộc thanh trừng bắt đầu ở thủ đô Jakarta, lan đến TrungĐông Java, và sau đó Bali. Hàng nghìn dân quân địa phương và các đơn vị quân đội đã giết những người bị cáo buộc là theo cộng. Mặc dù các vụ giết người xảy ra trên khắp Indonesia, cuộc thanh trừng tồi tệ nhất lại diễn ra trong các căn cứ địa của PKI ở Trung Java, Đông Java, Bali, và phía bắc Sumatera. Có thể có hơn một triệu người đã bị giam cầm. Khoảng 500 nghìn tới 1 triệu người bị cho là có liên hệ với Đảng Cộng sản Indonesia đã bị giết hại[36]

Tại Hàn Quốc[sửa | sửa mã nguồn]

Thảm sát tại cuộc nổi dậy Jeju[sửa | sửa mã nguồn]

Khởi nghĩa Jeju (Hangul: 제주 4·3 사건, chữ Hán: 濟州四三事件, nghĩa là 'sự kiện 3 tháng 4 tại Jeju') là một cuộc khởi nghĩa trên đảo Jeju tại Nam Triều Tiên/Hàn Quốc kéo dài từ ngày 3 tháng 4 năm 1948 đến tháng 5 năm 1949.[37][38] Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến khởi nghĩa là cuộc bầu cử dự kiến vào ngày 10 tháng 5 năm 1948 theo kế hoạch của Ủy ban Lâm thời Liên Hợp Quốc tại Triều Tiên (UNTCOK) nhằm hình thành một chính phủ mới cho toàn thể Triều Tiên. Tuy nhiên, bầu cử chỉ được lên kế hoạch tổ chức tại miền nam của Triều Tiên, trong khi không được tổ chức ở miền Bắc vì Liên Xô và chính quyền miền Bắc tẩy chay cuộc bầu cử. Trước cuộc bầu cử riêng rẽ ở phía Nam, các chiến binh du kích của Đảng Lao động Nam Triều Tiên (SKLP - một đảng anh em với Đảng Lao động Triều Tiên ở miền Bắc) đã phản ứng kịch liệt, tiến hành cuộc nổi dậy trên đảo Jeju.[37][38]:166–167

Chính phủ Hàn Quốc muốn quân nổi dậy đầu hàng hoàn toàn, còn quân nổi dậy yêu cầu cảnh sát địa phương giải trừ quân bị, miễn nhiệm toàn bộ quan chức trên đảo, cấm các tổ chức thanh niên bán quân sự trên bán đảo và tái thống nhất đất nước Triều Tiên.[37][38]:174 Giao tranh tiếp tục sau khi đàm phán thất bại và chính phủ Hàn Quốc đáp trả các hoạt động du kích bằng cách triển khai các đại đội cảnh sát, mỗi đại đội có 1.700 người, từ các tỉnh miền nam đến Jeju.[38]:168 Ngày 17 tháng 11 năm 1948, Lý Thừa Vãn tuyên bố thiết quân luật nhằm tiêu diệt cuộc khởi nghĩa. Trong giai đoạn này, Quân đội Nam Triều Tiên tham gia các hành động tàn bạo, một báo cáo mô tả sự kiện vào ngày 14 tháng 12 năm 1948 khi Quân đội Hàn Quốc tấn công làng, bắt giữ nhiều nam nữ thanh thiếu niên, hiếp dâm tập thể các nữ thanh thiếu niên trong hai tuần lễ và hành quyết họ cùng các nam thanh niên.[39]

Hài cốt những người bị quân đội Hàn Quốc tàn sát tại động Daranshi tại Jeju

Ngày 1 tháng 1 năm 1949, du kích khởi nghĩa phát động cuộc tấn công cuối cùng chống quân đội Hàn Quốc nhưng thất bại.[38] Quân đội Nam Triều Tiên truy kích các du kích quân và tiếp tục thực hiện các hành động tàn bạo, như tàn sát dân làng.[38][40]:{{{1}}} Chính phủ Hàn Quốc lúc này kiên quyết tiêu diệt tàn quân du kích, họ phát động một chiến dịch tiệt trừ trong tháng 3 năm 1949. Trong chiến dịch, 2.345 du kích quân và 1.668 thường dân bị giết.[38]

Hành động đàn áp tàn bạo của cảnh sát và quân đội Hàn Quốc dưới quyền kiểm soát của chính phủ Hoa Kỳ do James A. Casteel lãnh đạo, người chỉ huy lực lượng an ninh Jeju[41] Truyền thông Hoa Kỳ đưa ra tài liệu và công khai vụ tàn sát song quân đội Hoa Kỳ làm ngơ[42] Quân đội Hoa Kỳ sau đó gọi việc phá hủy hoàn toàn làng Jungsangan - tai họa lớn nhất trong sự kiện - là một "chiến dịch thành công".[43]

Nhìn chung, quân đội Hàn Quốc đã đàn áp vụ khởi nghĩa một cách đặc biệt tàn nhẫn.[37][38]:171[40]:13–14 Kết quả là khoảng 30.000 người thiệt mạng do khởi nghĩa, chiếm khoảng 10% dân số của đảo.[38]:195[40]:12 Khoảng 40.000 người khác phải sang Nhật Bản lánh nạn.[37][39]

Thảm sát tù nhân và thường dân trong chiến tranh Triều Tiên[sửa | sửa mã nguồn]

Trong chiến tranh Tiều Tiên, các lực lượng bán quân sự và cảnh sát, quân đội Hàn Quốc, thường có sự chứng kiến của giới quân sự Hoa Kỳ và những người không bị xét xử, đã hành quyết hàng chục ngàn tù nhân cánh tả và những người có cảm tình với Bắc Triều Tiên trong những sự kiện như vụ tàn sát tù nhân chính trị của Nhà tù Daejeon và cuộc đàn áp đẫm máu trong vụ Thảm sát Jeju.

Ngay trong ngày nổ ra chiến tranh, 28/6/1950, tổng thống Lý Thừa Vãn của Hàn Quốc ra lệnh tử hình toàn bộ tù nhân chính trị, bao gồm cả những người bất đồng chính kiến với Lý Thừa Vãn. Họ bị gom hết vào tội danh "ủng hộ Cộng sản" (dù thực tế phần lớn số này không phải là đảng viên Cộng sản mà chỉ tỏ ra chống đối chế độ Lý Thừa Vãn). Đầu tiên là tại trại tù ở đảo Jeju cực nam Hàn Quốc, nơi các tù chính trị phạm được chia làm bốn loại là A, B, C, D, tù chính trị phạm thuộc nhóm C, D bị xử bắn lập tức theo lệnh "Hành hình toàn bộ các tù nhân thuộc nhóm C,D bằng cách xử bắn không muộn hơn ngày 6 tháng 9 (năm 1950)" của Lý Thừa Vãn. Trên quy mô toàn quốc, tất cả tù chính trị, nghi can có liên hệ với Đảng Lao động Triều Tiên trên toàn quốc, đặc biệt tại trại cải tạo Bodo League (보도연맹 사건), bị tử hình lập tức bằng mọi cách mà không có bất kì phiên tòa, phiên xét xử nào. Tù nhân bị xử bắn tập thể, hầu hết bị tống xuống hố chôn tập thể, một số bị dùng báng súng đập chết hoặc bị quăng xuống biển. Nhiều đối thủ chính trị, gia đình các tù nhân Cộng sản, chính trị bao gồm cả trẻ em cũng bị đưa vào danh sách tử hình, bản án được các binh sĩ Hàn Quốc thực thi triệt để. Gregory Henderson, một nhà ngoại giao Hoa Kỳ tại Triều Tiên vào thời điểm đó, đưa ra con số tổng cộng là 100.000 người đã bị Hàn Quốc hành quyết, và xác chết của những người này bị quăng vào các hố chôn tập thể.[44]

Lính Hàn Quốc xử bắn hàng loạt dân thường ở Daejon, tháng 7/1950. Ảnh được chụp bởi U.S. Army Major Abbott.

Quân đội Hàn Quốc bị cáo buộc đã thảm sát hàng trăm nghìn lính Bắc Triều Tiên và Trung Hoa, trong đó rõ ràng nhất là cuộc thảm sát 1.800 tù nhân chính trị do quân đội miền Nam Triều Tiên thực hiện tại Daejeon, trong ba ngày của tháng 7/1950. Các nhà sử học và nhân chứng sống sót khẳng định binh lính Hàn Quốc đã hành quyết nhiều thường dân khi các lực lượng của Liên Hợp Quốc rút lui trước cuộc tấn công của quân đội Bắc Triều Tiên vào giữa năm 1950. Những nạn nhân này bị tình nghi có cảm tình với Bắc Triều Tiên và có thể cộng tác với đối phương nên bị xử bắn.[45]

Sau khi tái chiếm lại Nam Triều Tiên vào năm 1950, Lý Thừa Vãn ra lệnh tiến hành thảm sát hàng loạt những người dân bị tình nghi ủng hộ Bắc Triều Tiên, gây ra Thảm sát Bodo League (giết chết 100.000[46][cần số trang] tới 200.000[47] người), diễn ra suốt mùa hè năm 1950. Đây là một trong những vụ thảm sát lớn nhất châu Á kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

Gần đây, Ủy ban Hòa giải và Tìm sự thật của Hàn Quốc đã nhận được các báo cáo của hơn 7.800 vụ tàn sát dân sự trong 150 địa điểm khắp đất nước nơi các vụ tàn sát dân sự tập thể xảy ra trước và trong suốt cuộc chiến. Theo nhà lịch sử Kim Dong-choon, những vụ tàn sát tập thể này là "chương tàn bạo và kinh hoàng nhất cuộc chiến Triều Tiên". Ủy ban Hòa giải và Tìm hiểu sự thật ước tính ít nhất 100.000 người đã bị hành quyết. Những ước tính này dựa trên các cuộc khảo sát của các địa phương và theo ông Kim, con số thực sự có thể cao gấp hai lần và hơn thế.[48] Trong những vụ khác, quân đội Hàn Quốc cũng đã cho phá hủy một số cây cầu có đông nghẹt các thường dân đang bỏ chạy khi họ không thể nào giải tỏa những cây cầu đó trước khi quân địch đến.

Thảm sát Quang Châu[sửa | sửa mã nguồn]

Nghĩa trang Mangwol-dong ở Gwangju, thi thể các nạn nhân của vụ thảm sát Gwangju được chôn cất ở đây.

Năm 1980, Chung Doo-hwan được một hội đồng bầu cử bầu lên làm tổng thống. Ngày 18/5/1980 đã xảy ra vụ nổi dậy Gwangju khi người dân địa phương đánh cướp kho vũ khí của các trạm cảnh sát địa phương để chống lại cảnh sát chính phủ của Chung Doo-hwan sau khi lực lượng này đàn áp một cuộc biểu tình ôn hòa của sinh viên địa phương. Quân đội Hàn Quốc đã được điều động đến và được cho là đã nổ súng bắn chết khoảng 1.000 tới 2.000 thường dân[49][50], mặc cho tội ác thảm sát của mình, Chung Doo-hwan vẫn nắm vị trí cao nhất trong bộ máy quyền lực ở Hàn Quốc cho tới tận năm 1988. Sau này, ông ta bị chính phủ mới kết tội tham nhũng, hối lộ và bị kết án tử hình (sau đó được giảm xuống còn chung thân).

Trong suốt thời kỳ Chun Doo-hwan cầm quyền, sự kiện "18 tháng 5" bị vu cáo là "cuộc phản loạn của những người ủng hộ và đi theo chủ nghĩa Cộng sản". Chỉ sau khi luật dân sự được tái lập, sự kiện này mới được coi là một nỗ lực phục hồi nền dân chủ trước quyền lực quân sự. Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức gửi lời xin lỗi và xây dựng một nghĩa trang quốc gia dành cho các nạn nhân.[51][52]

Đài Loan[sửa | sửa mã nguồn]

Khủng bố Trắng ở Đài Loan diễn ra từ 1947 đến 1987.[53] Khoảng 140.000 người Đài Loan đã bị cầm tù trong thời gian này, trong đó có khoảng 3.000 đến 4.000 người bị xử tử vì sự chống đối với chính phủ Trung Quốc Quốc dân Đảng do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo.[54] Tuy nhiên, hầu hết các vụ truy tố thực tế diễn ra vào năm 1950-1953. Phần lớn những người bị truy tố đã bị cho là "Bọn côn đồ gián điệp" (匪諜), có nghĩa là gián điệp cho Đảng Cộng sản Trung Quốc, và bị trừng phạt.

Quốc dân Đảng đã bỏ tù hầu hết giới tinh hoa và trí thức xã hội của Đài Loan vì sợ rằng họ có thể chống lại sự cai trị của Quốc dân Đảng hoặc có thiện cảm với chủ nghĩa cộng sản.[54] Vào năm 1969, tổng thống tương lai Lý Đăng Huy đã bị cơ quan mật vụ Đài Loan bắt giữ và thẩm vấn trong hơn một tuần, tra khảo về "các hoạt động cộng sản" của ông và đã nói với ông rằng "giết ông vào lúc này cũng dễ như nghiền nát một con kiến đến chết"[55]

Thái Lan[sửa | sửa mã nguồn]

Chính phủ quân sự Thái Lan và Bộ Tư lệnh Hoạt động Đàn áp Cộng sản (CSOC), được hỗ trợ bởi Quân đội Hoàng gia Thái Lan, Cảnh sát Hoàng gia Thái Lan và các lực lượng bán quân, đã phản ứng bằng các biện pháp quyết liệt đối với cuộc nổi dậy của Đảng Cộng sản Thái Lan trong những năm 1960 và 1970. Các hoạt động chống cộng đạt đỉnh điểm từ năm 1971 đến năm 1973 dưới sự cai trị của Thống chế Thanom Kittikachorn và Tướng Praphas Charusathien. Theo số liệu chính thức, 3.008 nghi phạm cộng sản đã bị giết trên khắp đất nước[56], tuy nhiên ước tính thay thế cao hơn nhiều.

A prominent example was the so-called "Red Drum" or "Red Barrel" killings of Lam Sai, Phatthalung Province, Southern Thailand, where more than 200 civilians[57] (informal accounts speak of up to 3,000)[58][59] who were accused of helping the communists were burned in red 200-litre oil drums, sometimes after having been killed to dispose of their bodies and sometimes burned alive.[59] The incident was never thoroughly investigated and none of the perpetrators was brought to justice.[60]

Năm 1976, đã xảy ra 1 vụ thảm sát lớn ở Thái Lan. Ngày 5/10/1976, truyền thông Thái Lan tường thuật về một vở kịch do các sinh viên Đại học Thammasat dàn dựng trong 1 cuộc biểu tình, được cho là có cảnh giả treo cổ Thái tử Vajiralongkorn. Phản ứng trước sự sỉ nhục của lời đồn này, quân đội, cảnh sát cũng như dân quân Thái Lan bao vây đại học, tuyên bố rằng sinh viên là những tên Cộng sản nổi loạn. Rạng sáng ngày 6 tháng 10 năm 1976, quân đội và cảnh sát bắn vào khuôn viên, sử dụng súng trường M16, súng cạc-bin, súng ngắn, súng phóng lựu, và thậm chí là súng không giật cỡ lớn.[61]:235-236 Sau khi cảnh sát trưởng Bangkok ban lệnh tự do khai hỏa, họ nã súng ồ ạt vào khuôn viên[61]:236 Các sinh viên lặn dưới sông Chao Phraya bị các tàu hải quân bắn trong khi những người khác đầu hàng nằm xuống đất, bị đánh đập khiến nhiều người chết.[61]:236 Một số người bị treo lên cây và bị đánh, những người khác bị thiêu sống. Nhiều sinh viên nữ bị cảnh sát và nhóm dân quân "Bò tót Đỏ" cưỡng hiếp, có người mất mạng.[61]:236 Thảm sát tiếp tục trong vài giờ, và chỉ dừng lại vào buổi trưa do có mưa.[61]:236 Số lượng thương vong trong ngày này là điều tranh cãi giữa chính phủ Thái Lan và những người còn sống sau sự kiện. Theo chính phủ, có 46 người chết do xung đột, cùng 167 người bị thương và 3.000 người bị bắt giữ. Nhiều người còn sống tuyên bố rằng tổng số người chết vượt quá 100.[61]:236 Đây chính là cuộc Thảm sát Đại học Thammasat.

Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]

Benjamin Valentino ước tính quân đội Mỹ và các đồng minh của Mỹ đã gây ra 110.000–310.000 vụ thảm sát hàng loạt trong các chiến dịch truy quét du kích trong chiến tranh Việt Nam.[62]

Nick Turse, trong sách "Giết mọi thứ di động", lập luận rằng: việc không ngừng tìm kiếm nhiều hơn số xác chết để báo cáo thành tích, việc sử dụng lan tràn vùng tự do bắn phá, thường dân có thể bị xem là du kích, và thái độ khinh miệt phổ biến dành cho thường dân Việt Nam đã dẫn đến thương vong lớn và tội ác chiến tranh gây ra bởi quân đội Mỹ.[63] Một ví dụ là Chiến dịch Speedy Express, được mô tả bởi John Paul Vann, là một vụ thảm sát còn ghê gớm gấp nhiều lần Thảm sát Mỹ Lai.[63]

Châu Âu

Đức Quốc xã[sửa | sửa mã nguồn]

Tù binh Liên Xô kiệt quệ trong trại tập trung Mauthausen.

Trong quá trình chiến tranh xâm lược Liên Xô, Đức quốc xã thi hành chính sách diệt chủng người Do Thái và người Slav tại những vùng chiếm đóng[64]. Mặt khác, tù binh Liên Xô bị cưỡng bức lao động với cường độ cao trong khi chế độ ăn uống tồi tệ, khiến nhiều người đã chết vì kiệt sức và đói khát. Những tù binh là Đảng viên hoặc chính trị viên có thể bị xử bắn ngay khi bị bắt bởi một mệnh lệnh được ban hành trước đó bởi Hitler nhằm tiêu diệt các đầu não chỉ huy và nguồn khích lệ chính trị của Hồng quân[65].

Hàng chục triệu Người Nga và các người Slav cũng bị giam cầm tại hơn 100 trại tập trung của Đức trên khắp các vùnh lãnh thổ châu Âu bị nước Đức Quốc xã chiếm đóng. Các trại lớn nhất là Dachau, Buchenwald, Ravensbrück, Auschwitz, Majdanek, Bergen Belsen, Gusen... Số người được giải phóng khỏi các trại này sau chiến tranh chỉ còn vài trăm nghìn. Ước tính khoảng 13,6 triệu thường dân Liên Xô đã chết trong cuộc chiến[66][67][68], cùng với đó là khoảng 3,3 triệu tù binh Liên Xô đã chết trong các trại tù binh của Đức)[69][70].

Ba Lan[sửa | sửa mã nguồn]

Theo cuốn "The Polish Captivity" của giáo sư Matveyev ở Đại học Quốc gia Moscow, Ba Lan đã bắt được 206.877 binh lính Hồng quân trong suốt cuộc Chiến tranh Nga-Ba Lan (1919-1921). Trong khi bị giam tại các trại của Ba Lan, binh lính Hồng quân đã bị đối xử vô nhân đạo, người bị thương không được cứu chữa, người thì bị chết đói hoặc chết vì giá lạnh, thậm chí bị tra tấn, nhục hình và ngược đãi. Nhà văn Xô Viết Alexander Serafimovich, sau là phóng viên đặc biệt cho tờ Izvestia và Pravda ở Ba Lan đã viết: "Sự tra tấn và nhục hình mà Hồng quân phải chịu làm cho thế giới phải rùng mình về sự tàn bạo mà quân đội Ba Lan đã áp dụng, vừa tra tấn vừa hô "diệt hết những con chó đỏ Nga"[71].

Phía Ba Lan chỉ công nhận việc bắt giữ 80-110 nghìn tù binh, và có 18.000 tù binh Nga bị chết trong trại giam của họ. Tuy nhiên, theo tài liệu được bảo quản tại Lưu trữ Quân đội Trung ương Ba Lan (CAW) thì con số này không khớp. Giáo sư Matveyev đã chỉ ra quân đội Ba Lan đã bí mật giam giữ số lượng tù nhân thực tế vượt trên 150.000 người, và chỉ riêng trại giam Tuchola đã có khoảng 22.000 tù binh Hồng quân bị chết. Giáo sư Matveyev ước tính đã có khoảng 60.000 - 83.500 tù binh Nga đã chết trong trại giam Ba Lan, tương đương 30-40% số tù binh[71]

Tháng 9/1998, Tổng công tố Nga Yuri Chayka đã gửi thư cho Bộ trưởng Tư pháp Ba Lan yêu cầu tiến hành cuộc điều tra chính thức về cái chết của tù binh Nga bị bắt trong cuộc chiến do điều kiện sống cực khổ, vô nhân đạo. Phía Ba Lan đã bác bỏ đề nghị này. Đại sứ Nga Andreyev cho rằng Ba Lan không muốn dư luận hiểu sâu một số giai đoạn lịch sử mà Ba Lan là kẻ hiếu chiến, bởi "bất lợi, giữa kín càng lâu càng tốt"[71]

Tây Ban Nha[sửa | sửa mã nguồn]

Ở Tây Ban Nha, Khủng bố Trắng (hay "Đàn áp của Franco") đề cập đến những hành động tàn bạo của những người theo chủ nghĩa Quốc gia trong Nội chiến Tây Ban Nha cũng như những hành động tàn bạo xảy ra sau đó ở Tây Ban Nha.[72]

Hầu hết các nhà sử học đồng ý rằng số người chết của Khủng bố Trắng cao hơn của Khủng bố Đỏ. Trong khi hầu hết các ước tính về cái chết của Khủng bố Đỏ là từ 38.000[73] đến 55.000,[74] hầu hết các ước tính về số người chết của Khủng bố Trắng là từ 150.000[75] đến 400.000.[76]

Các số liệu cụ thể không tồn tại vì nhiều người cộng sản và xã hội chủ nghĩa đã chạy trốn khỏi Tây Ban Nha sau khi thua cuộc Nội chiến. Hơn nữa, chính phủ Franco đã tiêu hủy hàng nghìn tài liệu liên quan đến Khủng bố Trắng[77][78][79] cũng như che giấu các bằng chứng về những vụ xử tử hàng loạt những người Cộng hòa[80][81] Hàng nghìn nạn nhân của cuộc khủng bố trắng được chôn cất trong hàng trăm ngôi mộ tập thể không được đánh dấu, hơn 600 ngôi mộ tập thể chỉ riêng ở Andalusia.[82] Ngôi mộ tập thể lớn nhất là tại nghĩa trang San Rafael ở ngoại ô của Malaga (có lẽ tới hơn 4.000 thi thể).[83] Hiệp hội Phục hồi Ký ức Lịch sử (Asociación para la Recuperación de la Memoria Historica hay ARMH) cho biết số người mất tích là hơn 35.000.[84]

Theo "Cương lĩnh dành cho các nạn nhân mất tích do chủ nghĩa Franco", 140.000 người đã mất tích, bao gồm cả nạn nhân của Nội chiến Tây Ban Nha và các cuộc đàn áp của Franco diễn ra sau đó.[85][86] Có thể nói rằng Tây Ban Nha là quốc gia đứng thứ hai trên thế giới về số người đã mất tích mà hài cốt vẫn chưa được tìm thấy cũng như không được xác định (chỉ sau Campuchia).[87]

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ PBS News Hour, 16 Oct. 1997, et al. Argentina Death Toll, Twentieth Century Atlas
  2. ^ Blakeley, Ruth (2009). State Terrorism and Neoliberalism: The North in the South. Routledge. tr. 22 & 23. ISBN 0415686172.
  3. ^ Mark Aarons (2007). "Justice Betrayed: Post-1945 Responses to Genocide." In David A. Blumenthal and Timothy L. H. McCormack (eds). The Legacy of Nuremberg: Civilising Influence or Institutionalised Vengeance? (International Humanitarian Law). Lưu trữ 2016-01-05 tại Wayback Machine Martinus Nijhoff Publishers. ISBN 9004156917 pp. 71
  4. ^ McSherry, J. Patrice (2011). “Chapter 5: "Industrial repression" and Operation Condor in Latin America”. Trong Esparza, Marcia; Henry R. Huttenbach; Daniel Feierstein (biên tập). State Violence and Genocide in Latin America: The Cold War Years (Critical Terrorism Studies). Routledge. tr. 107. ISBN 0-415-66457-8.
  5. ^ La Nación, ngày 19 tháng 9 năm 2006. Condenaron a Etchecolatz a reclusión perpetua.
  6. ^ Cold War's Last Battlefield, The: Reagan, the Soviets, and Central America by Edward A. Lynch State University of New York Press 2011, p. 49.
  7. ^ Wood, Elizabeth (2003). Insurgent Collective Action and Civil War in El Salvador. Cambridge: Cambridge University Press.
  8. ^ “UCDP - Uppsala Conflict Data Program”. www.ucdp.uu.se. Bản gốc lưu trữ ngày 10 tháng 12 năm 2019. Truy cập ngày 3 tháng 10 năm 2021.
  9. ^ Larsen, Neil (2010). “Thoughts on Violence and Modernity in Latin America”. Trong Grandin & Joseph, Greg & Gilbert (biên tập). A Century of Revolution. Durham and London: Duke University Press. tr. 381–393.
  10. ^ "Report of the UN Truth Commission on El Salvador" United Nations, ngày 1 tháng 4 năm 1993
  11. ^ Uppsala Conflict Data Program Conflict Encyclopedia, El Salvador, In Depth: Negotiating a settlement to the conflict, http://www.ucdp.uu.se/gpdatabase/gpcountry.php?id=51&regionSelect=4-Central_Americas# Lưu trữ 2013-10-19 tại Wayback Machine, "While nothing of the aid delivered from the US in 1979 was earmarked for security purposes the 1980 aid for security only summed US$6,2 million, close to two-thirds of the total aid in 1979", viewed on ngày 24 tháng 5 năm 2013
  12. ^ Chile priest charged over deaths, BBC, 1st September 2007 (English)
  13. ^ Caravan of Death, Memoria y Justicia (English)
  14. ^ “El campo de concentración de Pinochet cumple 70 años”. EL PAÍS. Truy cập 9 tháng 2 năm 2015.
  15. ^ “New Information on the Murders of U.S. Citizens Charles Horman and Frank Teruggi by the Chilean Military”. Truy cập 12 tháng 8 năm 2016.
  16. ^ “BBC NEWS”. Truy cập 9 tháng 2 năm 2015.
  17. ^ http://news.bbc.co.uk/2/hi/americas/1109861.stm
  18. ^ Abuses-article-1.368198 Group cho biết các tệp cho thấy Hoa Kỳ biết về các vụ lạm dụng ở Guatemala. Associated Press qua New York Daily News , ngày 19 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 29 tháng 10 năm 2016.
  19. ^ Guatemala: A Nation of Prisoners, An Americas Watch Report, January 1984, pp. 2–3
  20. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên GHCC
  21. ^ United States Department of State. The Chinese Revolution of 1949. Office of the Historian. [2014-02-23] (tiếng Anh).
  22. ^ Richard R. Wertz. -Rebellion and Revolution- Nationalist Movements. ibiblio. [2014-02-23] (tiếng Anh).
  23. ^ Wilbur, Nationalist Revolution 114
  24. ^ “CHINA: Nationalist Notes”. TIME. ngày 25 tháng 6 năm 1928. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 4 năm 2011. Truy cập ngày 11 tháng 4 năm 2011.
  25. ^ Barnouin, Barbara and Yu Changgen. Zhou Enlai: A Political Life. Hong Kong: Chinese University of Hong Kong, 2006. ISBN 962-996-280-2. Truy cập at Google Books on ngày 12 tháng 3 năm 2011. p.38
  26. ^ R.J.Rummel. “CHINA'S BLOODY CENTURY”.
  27. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 民國史大事記
  28. ^ Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên 年表
  29. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 12 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2019.
  30. ^ Dunn, p. 78; Budiadjo and Liong, p. 5; Jolliffe, pp. 197–198; Taylor (1991), p. 58. Taylor cites a September CIA report describing Indonesian attempts to "provoke incidents that would provide the Indonesians with an excuse to invade should they decide to do so".
  31. ^ Kiernan, p. 594.
  32. ^ “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 22 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2019.
  33. ^ http://www.hawaii.edu/powerkills/SOD.TAB14.1C.GIF
  34. ^ Payaslian, Simon. “20th Century Genocides”. Oxford bibliographies.Quản lý CS1: ref trùng mặc định (liên kết)
  35. ^ “Genocide Studies Program: East Timor”. Yale.edu.
  36. ^ John Roosa and Joseph Nevins (ngày 5 tháng 11 năm 2005). “40 Years Later: The Mass Killings in Indonesia”. CounterPunch. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 12 năm 2006. Truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2006.;Robert Cribb (2002). “Unresolved Problems in the Indonesian Killings of 1965-1966”. Asian Survey. 42 (4): 550–563. doi:10.1525/as.2002.42.4.550.
  37. ^ a b c d e Deane, Hugh (1999). The Korean War 1945-1953. San Francisco: China Books and Periodicals Inc. tr. 54–58. ISBN 0-8351-2644-7.
  38. ^ a b c d e f g h i Merrill, John (1980). “Cheju-do Rebellion”. The Journal of Korean Studies: 139–197.
  39. ^ a b HIDEKO TAKAYAMA IN TOKYO (ngày 19 tháng 6 năm 2000). “Ghosts Of Cheju”. newsweek. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2009.
  40. ^ a b c Kim, Hun Joon (2014). The Massacre at Mt. Halla: Sixty Years of Truth Seeking in South Korea. Cornell University Press. tr. 12–41. ISBN 9780801452390.
  41. ^ The National Committee for the Investigation of the Truth about the Jeju April 3 Incident (ngày 15 tháng 12 năm 2003). “The Jeju April 3 Incident Investigation Report” (PDF). Office of the Prime Minister, Republic of Korea. tr. 144. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 21 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 17 tháng 8 năm 2015.
  42. ^ HIDEKO TAKAYAMA IN TOKYO (ngày 19 tháng 6 năm 2000). “Ghosts Of Cheju”. newsweek. Truy cập ngày 30 tháng 3 năm 2009.
  43. ^ [https://web.archive.org/web/20131113032553/http://www.jeju43.go.kr/sub/catalog.php?CatNo=27 “����4��3��� ����Ը� �� ����� ���ȸ�� ����ȸ”]. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 11 năm 2013. Truy cập 12 tháng 12 năm 2015. replacement character trong |tiêu đề= tại ký tự số 1 (trợ giúp)
  44. ^ Toussaint, Éric (ngày 11 tháng 4 năm 2006). “Nam Hàn: sự thần kỳ hé mở”. Ủy ban xóa nợ thế giới thứ ba của Bỉ. Lưu trữ bản gốc ngày 21 tháng 6 năm 2008. Truy cập ngày 22 tháng 8 năm 2007.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)
  45. ^ http://kienthuc.net.vn/kim-chi-da-lua/46-hinh-anh-cuc-soc-ve-cuoc-chien-trieu-tien-1-222525.html?p=12. |title= trống hay bị thiếu (trợ giúp)[cần nguồn tốt hơn]
  46. ^ Historical Dictionary of the Korean War, Paul M. Edwards, Plymouth, UK: Scarecrow Press, 2010, p. 32, entry "Bodo League Massacre"
  47. ^ Kim 2004, tr. 535.
  48. ^ “Tiết lộ vụ tàn sát tập thể kinh hoàng ở Hàn Quốc năm 1950”. Báo điện tử Dân Trí. 21 tháng 5 năm 2008. Lưu trữ bản gốc ngày 11 tháng 8 năm 2013. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.Quản lý CS1: bot: trạng thái URL ban đầu không rõ (liên kết)[cần nguồn tốt hơn]
  49. ^ Plunk, Daryl M. "South Korea's Kwangju Incident Revisited." Asian Studies Backgrounder No. 35 (September 16) 1985: p. 5.
  50. ^ “Flashback: The Kwangju massacre”. BBC News. ngày 17 tháng 5 năm 2000.
  51. ^ “Vụ thảm sát Kwangju ở Hàn Quốc và di sản”. https://vnexpress.net/. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  52. ^ “Kỷ niệm 38 năm Phong trào vận động dân chủ Gwangju 18/5”. http://world.kbs.co.kr/service/index.htm?lang=v. Liên kết ngoài trong |website= (trợ giúp)
  53. ^ Chen, Ketty (Winter 2008). “Disciplining Taiwan: The Kuomintang's Methods of Control during the White Terror Era (1947-1987)” (PDF). Taiwan International Studies Quarterly. 4 (4): 187.
  54. ^ a b Lỗi chú thích: Thẻ <ref> sai; không có nội dung trong thẻ ref có tên TaipeiTimes20050520
  55. ^ Tsai, Shih-shan Henry (2005). Lee Teng-Hui and Taiwan's Quest for Identity. New York: Palgrave Macmillan. tr. 101–103. ISBN 9781403970565.
  56. ^ Narratives of the "Red Barrel" Incident: Collective and Individual Memories in Lamsin, Southern Thailand. Oral History in Southeast Asia: Memories and Fragments. Palgrave Macmillan. tr. 101.
  57. ^ Jularat Damrongviteetham (2013). Narratives of the "Red Barrel" Incident: Collective and Individual Memories in Lamsin, Southern Thailand. Oral History in Southeast Asia: Memories and Fragments. Palgrave Macmillan. tr. 101.
  58. ^ Tyrell Haberkorn (2013). Getting Away with Murder in Thailand: State Violence and Impunity in Phatthalung. State Violence in East Asia. University Press of Kentucky. tr. 186.
  59. ^ a b Matthew Zipple (2014). “Thailand's Red Drum Murders Through an Analysis of Declassified Documents” (PDF). Southeast Review of Asian Studies. 36: 91. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 3 tháng 3 năm 2016. Truy cập ngày 24 tháng 3 năm 2019.
  60. ^ Tyrell Haberkorn (2013). Getting Away with Murder in Thailand. tr. 186–187.
  61. ^ a b c d e f Handley, Paul M (2006). The King Never Smiles; A Biography of Thailand's Bhumibol Adulyadej. New Haven: Yale University Press. ISBN 0-300-10682-3. Truy cập ngày 5 tháng 10 năm 2016.[liên kết hỏng]
  62. ^ Valentino, Benjamin (2005). Final Solutions: Mass Killing and Genocide in the 20th Century. Cornell University Press. tr. 84. ISBN 9780801472732.
  63. ^ a b Turse 2013, tr. 251.
  64. ^ Rossiiskaia Akademiia nauk. Liudskie poteri SSSR v period vtoroi mirovoi voiny:sbornik statei. Sankt-Peterburg 1995 ISBN 978-5-86789-023-0.
  65. ^ Förster, Jürgen (1989). "The Wehrmacht and the War of Extermination Against the Soviet Union (pages 492–520)". In Michael Marrus. The Nazi Holocaust Part 3 The "Final Solution": The Implementation of Mass Murder Volume 2. Westpoint, CT: Meckler Press. ISBN 978-0-88736-255-2, page 273
  66. ^ G. I. Krivosheev Rossiia i SSSR v voinakh XX veka: Poteri vooruzhennykh sil; statisticheskoe issledovanie OLMA-Press, 2001 ISBN 5-224-01515-4 Tables 116-118
  67. ^ Российская академия наук (Russian Academy of Sciences). Людские потери СССР в период второй мировой войны: рник стсбоатей (Human Losses of the USSR in the Period of WWII: Collection of Articles). Saint-Petersburg, 1995. ISBN 978-5-86789-023-0
  68. ^ Perrie, Maureen (2006), The Cambridge History of Russia: The twentieth century, Cambridge University Press, p. 226, ISBN 0-521-81144-9 Total civilian deaths under the German occupation were 13.7 million including 2 million Jews
  69. ^ G. I. Krivosheev Rossiia i SSSR v voinakh XX veka: Poteri vooruzhennykh sil; statisticheskoe issledovanie OLMA-Press, 2001 ISBN 5-224-01515-4 Table 120
  70. ^ G. I. Krivosheev. Soviet Casualties and Combat Losses. Greenhill 1997 ISBN 978-1-85367-280-4 Page 85
  71. ^ a b c “Bản sao đã lưu trữ”. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2019. Truy cập ngày 19 tháng 3 năm 2021.
  72. ^ Beevor, Antony. The Battle for Spain; The Spanish Civil War 1936–1939 (Weidenfeld & Nicolson, 2006), pp.89–94.
  73. ^ Beevor, Antony. The Battle for Spain; The Spanish Civil War 1936–1939. Penguin Books. 2006. London. p.87
  74. ^ Thomas, Hugh. The Spanish Civil War. Penguin Books. London. 2001. p.900
  75. ^ Casanova, Julían; Espinosa, Francisco; Mir, Conxita; Moreno Gómez, Francisco. Morir, matar, sobrevivir. La violencia en la dictadura de Franco. Editorial Crítica. Barcelona. 2002. p.8
  76. ^ Richards, Michael. A Time of Silence: Civil War and the Culture of Repression in Franco's Spain, 1936-1945. Cambridge University Press. 1998. p.11
  77. ^ Preston, Paul. The Spanish Civil War. Reaction, revolution & revenge. Harper Perennial. 2006. London. p.316
  78. ^ Espinosa, Francisco. La justicia de Queipo. Editorial Crítica. 2006. Barcelona. p.4
  79. ^ Espinosa, Francisco. Contra el olvido. Historia y memoria de la guerra civil. Editorial Crítica. 2006. Barcelona. p.131
  80. ^ Fontana, Josep, ed. España bajo el franquismo. Editorial Crítica. 1986. Barcelona. p.22
  81. ^ Espinosa, Francisco. La justicia de Queipo. Editorial Crítica. 2006. Barcelona. pp.172–173
  82. ^ Moreno Gómez, Francisco. 1936: el genocidio franquista en Córdoba. Editorial Crítica. Barcelona. 2008. p.11
  83. ^ “A chilling summer - Olive Press News Spain”. www.theolivepress.es. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2018.
  84. ^ Silva, Emilio. Las fosas de Franco. Crónica de un desagravio. Ediciones Temas de Hoy. 2006. Madrid. p. 110
  85. ^ http://www.elmundo.es/elmundo/2008/09/22/espana/1222093274.html "Garzón recibe más de 140.000 nombres de desaparecidos en la Guerra Civil y la dictadura respecto de las que todavía se continúa desconociendo su paradero". El Mundo, 22 de septiembre de 2008.
  86. ^ http://www.publico.es/actualidad/al-menos-88-000-victimas.html "Al menos 88.000 víctimas del franquismo continúan sepultadas en fosas comunes." Público, 30 de agosto de 2012.
  87. ^ http://www.diariodelaltoaragon.es/NoticiasDetalle.aspx?Id=796901 Lưu trữ 2017-09-17 tại Wayback Machine "España es el segundo país con más desaparecidos después de Camboya". Diario del Alto Aragón, 1 de marzo de 2013

Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/C%C3%A1c_v%E1%BB%A5_th%E1%BA%A3m_s%C3%A1t_ch%E1%BB%91ng_C%E1%BB%99ng_s%E1%BA%A3n