Wiki - KEONHACAI COPA

Bruce Willis

Bruce Willis
SinhWalter Bruce Willis
19 tháng 3, 1955 (69 tuổi)
Idar-Oberstein, Tây Đức
Quốc tịch Hoa Kỳ  Đức
Trường lớpĐại học bang Montclair
Nghề nghiệpDiễn viên
Nhà sản xuất
Ca sĩ
Năm hoạt động1980–2022
Chiều cao183 cm (6 ft 0 in)
Phối ngẫu
Demi Moore
(cưới 1987⁠–⁠2000)

Emma Heming (cưới 2009)
Con cái5, bao gồm Rumer Willis

Walter Bruce Willis (sinh ngày 19 tháng 3 năm 1955) là một cựu diễn viên, nhà sản xuấtca sĩ người Mỹ. Sự nghiệp điện ảnh của ông bắt đầu trên sân khấu Off-Broadway và sau đó xuất hiện trên màn ảnh nhỏ vào những năm 80, đáng kể nhất với vai David Addson trong Moonlighting (1985-1989) và tiếp tục lên sóng truyền hình và phim ảnh thời gian đó, bao gồm các thể loại hành động, tình cảm, kinh dị,... Ông được biết đến nhiều nhất với vai diễn John McClane trong loạt phim Die Hard.

Các bộ phim của Willis bao gồm The Last Boy Scout (1991), Pulp Fiction (1994), 12 Monkeys (1995), The Fifth Element (1997), The Jackal (1997), Armageddon (1998), Mercury Rising (1998), The Sixth Sense (1999), Sin City (2005), Red (2010), The Expendables 2 (2012), Looper (2012) và vai David Dunn trong Unbreakable (2000), Split (2016) và Glass (2019).

Với vai trò là một ca sĩ, Willis phát hành album đầu tay The Return of Bruno vào năm 1987. Ông tiếp tục phát hành thêm hai album vào năm 1989 và 2001. Ông nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm một giải Quả cầu vàng, hai giải Emmy và hai giải People's Choice Awards. Ông nhận được một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood năm 2006.

Bruce Willis chính thức giải nghệ làng điện ảnh vào năm 2022 do ông đang mắc hội chứng bất lực ngôn ngữ.

Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]

Willis có tên khai sinh là Walter Bruce Willis,[1] sinh ngày 19 tháng 3 năm 1955 tại Tây Đức.[2][3][4] Cha ông, David Willis (1929-2009) là một người lính Mỹ. Mẹ ông, Marlene[5] là một người Đức, sinh gần Kassel.[2][3] Willis là anh cả trong gia đình có bốn người con; ông có một em gái tên Florence và một người em trai tên là David. Em trai Robert của ông qua đời bởi căn bệnh ung thư tuyến tụy vào năm 2001, thọ 42 tuổi.[6]

Sau khi xuất ngũ năm 1957, cha Willis đưa gia đình ông quay trở về Carneys Point Township, New Jersey.[7] Willis miêu tả bản thân xuất thân từ một gia đình tầng lớn lao động thường. Mẹ ông làm việc tại một ngân hàng còn cha ông là một thợ hàn, thợ máy chuyên nghiệp và công nhân nhà máy.[1] Willis theo học tại trường trung học Penns Grove ở quê nhà, nơi ông gặp vài vấn đề với chứng nói lắp,[7] vì thế ông được bạn bè đặt biệt danh là "Buck-Buck".[1][8][9] Sau khi thể hiện mình trên sân khấu thuận lợi và mất dần chứng nói lắp, Willis bắt đầu biểu diễn trên sân khấu; những hoạt động ở trường của ông đánh dấu bởi những sự kiện như câu lạc bộ kịch và trở thành chủ tịch hội đồng học sinh.[1]

Sau khi tốt nghiệp trung học, Willis nhận một công việc làm bảo vệ tại Salem Nuclear Power Plant,[10][11] đồng thời làm công việc giao hàng tại nhà máy Dupont Chambers Works ở Deepwater, New Jersey.[11] Sau khi kết thúc công việc thám tử tư (một vai diễn ông sẽ đóng trong series phim truyền hình Moonlighting và bộ phim năm 1991 The Last Boy Scout), Willis bắt đầu chuyển sang diễn xuất. Ông tham gia vào chương trình kịch tại trường đại học bang Montclair, nơi ông tham gia sản xuất vở kịch Cat on a Hot Tin Roof. Willis rời trường học và chuyển đến thành phố New York,[3] ông bắt đầu với công việc phục vụ rượu tại West 19th Street art bar Kamikaze.[12]

Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Thập niên 1980[sửa | sửa mã nguồn]

Willis rời New York và chuyển đến California để thử vai trong một số chương trình truyền hình. Vào năm 1984, ông xuất hiện trong một tập phim của sê-ri truyền hình Miami Vice, với tiêu đề là "No Exit". Năm 1985, ông đóng vai khách mời trong tập "Shatterday" của sê-ri The Twilight Zone.[13] Ông thử vai David Addison Jr. trong sê-ri Moonlighting (1985-1989), và ông đã vượt qua 3000 diễn viên khác để giành được vai này.[14] Vai diễn đối diện với Cybill Shepherd, đã giúp ông trở thành diễn viên hài với chương trình kéo dài năm mùa. Trong thời gian đó, ông đã giành giải Emmy cho Nam diễn viên sê-ri chính kịch xuất sắc nhấtgiải Quả cầu vàng cho Nam diễn viên sê-ri hài - nhạc kịch xuất sắc nhất.[7] Trong lúc các show của ông thành công thì hãng nước uống đã thuê Willis quảng cáo cho sản phẩm Golden Wine của họ.[15] Với chiến dịch quảng cáo ông đã thu được từ 5-7 triệu đô lo chỉ sau 2 năm. Và vì lẽ đó, ông đã không kết thúc hợp đồng với công ty cho đến khi ông quyết định bỏ uống rượu vào năm 1988.[16]

Willis có vai diễn điện ảnh đầu tiên vào năm 1987 trong Blind Date của Blake Edwards, với Kim BasingerJohn Larroquette.[7] Edwards cũng cho anh đóng vai trò vai diễn của một tên cao bồi thật thụ Tom Mix trong bộ phim Sunset năm 1988. Ngoài ra, nằm ngoài mong đợi ông lại được diễn xuất trong Die Hard (1988) trong vai John McClane, và chính là bộ phim đã làm nên tên tuổi ông, khiến Bruce Willis trở thành một ngôi sao trong làng điện ảnh.[7] Ông đã thể hiện được những kĩ năng cá nhân cũng như những pha hành động kiểu 1 tay 1 súng trong bộ phim này, và sau đó bộ phim đã thu về danh thu 138,708,852 đô la trên toàn cầu.[17] Nối tiếp thành công với vai diễn McClane trong DieHard, ông cũng tham gia một vai phụ trong bộ phim In Country với vai 1 cựu lính Mỹ từng chiến đấu tại Việt Nam tên là Emmett Smith và cũng tham gia lồng tiếng cho bộ phim Look Who’s Talking, và tiếp tục sau đó là Look Who’s Talking Too.

Vào cuối những năm 80, Willis bắt đầu tận hưởng niềm niềm đam mê và đạt được thành công trong lĩnh vực ca sĩ, với album nhạc pop-blues với tiêu đề "The Return of Bruno", trong đó bao gồm ca khúc hit "Respect Yourself" hợp tác với The Pointer Sisters.[18] Và sau đó ông cho ra sản phẩm thứ 2 đó là ca khúc Under The Boardwalk, sản phẩm đã đứng vị trí thứ 2 trong UK Top 40, đạt được thành công nhỏ trong làng giải trí Mỹ. Willis trở lại với việc phòng thu những năm sau đó.

Thập niên 1990[sửa | sửa mã nguồn]

Willis giành được thành công lớn trong sự nghiệp cá nhân của mình bao gồm vai diễn John McClane trong Die Hard. Bộ phim được tiếp nối sau đó với Die Hard 2: Die Harder (1990) và Die Hard with a Vengeance (1995).[7] Tổng danh thu toàn cầu của ba phim đầu tiên trong sê-ri Die Hard vượt qua 700 triệu đô và đưa Willis thành ngôi sao hành động hàng đầu Hollywood.

Đầu những năm 90, sự nghiệp Willis có phần kém phát triển hơn và không đạt thành công như mong đợi, ví dụ như The Bonfire of the Vanitles, ông giành lại thành công với Striking Distance, nhưng lại thất bại với Color of Night năm 1994. Sự thất bại doanh thu phòng vé của phim khiến nó không nhận được sự đánh giá cao của giới phê bình nhưng đã đạt được thứ hạng cao trong hội chợ video gia đình và trở thành một trong 20 phim được thuê nhiều nhất tại Hoa Kỳ năm 1995.[19]

Năm 1994, ông nhận vai phụ Butch Coolidge trong bộ phim Pulp Fiction của Quentin Tarantino, đưa ông thành công trở lại với nghiệp diễn xuất.[7] Vào năm 1996, ông là nhà điều hành sản xuất và đóng trong phim hoạt hình Bruno the Kid mang nét CGI hình tượng của chính ông.[20] Ông chuyển sang đóng vai chính trong các bộ phim 12 con khỉ (1995) và The Fifth Element (1997). Tuy nhiên, vào cuối những năm 90, sự nghiệm của ông lại xuống dốc với những lời chỉ trích phê bình trầm trọng, điển hỉnh là các bộ phim như The Jackal, Mercury RisingBreakfast of Champions, thành công của ông chỉ được cứu vãn bởi bộ phim Armegeddon do Michael Bay đạo diễn - bộ phim có doanh thu toàn cầu cao nhất năm 1998.[21] Cũng cùng trong một năm giọng nói và hình tượng của ông được đề cao trong video game PlayStation Apocalypse.[22] Và năm 1990, Willis đảm nhận vai diễn trong bộ Giác quan thứ sáu do M. Night Shyamalan sản xuất. Trong phim, mặc dù là người thuận tay trái, nhưng ông phải học cách viết bằng tay phải để khán giả không để ý chiếc nhẫn cưới của nhân vật ông đóng đã mất.[23] Phim vừa nhận được sự thành công trong giới phê bình cũng như doanh thu, và đã khiến người xem càng ngày càng thích thú với diễn xuất của ông.

Thập niên 2000[sửa | sửa mã nguồn]

Willis tại một lễ trao giải năm 2002.

Vào năm 2000, Willis thắng giải Emmy[24] cho nam diễn viên khách mời trong sê-ri hài xuất sắc nhất nhờ vai diễn trong loạt phim hài kịch tình huống Những người bạn (trong phim ông thủ vai cha của bạn gái Ross Geller).[25] Năm 2001, ông cũng được đề cử vào diễn viên phụ nam diễn xuất hài hước nhất tại American Comedy Award với hạng mục Nam diễn viên khách mời vui tính nhất cũng trong phim truyền hình Những người bạn. Cũng trong năm 2000, Willis thủ vai Jimmy "The Tulip" Tudeski trong The Whole Nine Yards cùng với Matthew Perry. Willis ban đầu được chọn thủ vai Terry Benedict trong Ocean’s Eleven (2001) nhưng ông đã từ chối vì bận thu âm album mới của mình.[26] Trong Ocean’s Twelve (2004), ông có một vai khách mời cho vai chính ông. Vào 2007, ông xuất hiện trong bộ phim Planet Terror và bên cạnh đó ông còn tham gia vào Grindhouse với nhân vật phản diện, một tên lính biến thái. Nó cũng đã đưa ông đến với lần cộng tác thứ 2 giữa ông và đạo diễn Robert Rodriguez trong Thành phố tội ác.

Willis tại Liên hoan phim Cannes 2006.

Willis xuất hiện trên Late Show with David Letterman trong một vài lần ngoài công việc diễn xuất của mình. Ông thế chỗ David Letterman trong show của ông ấy vào ngày 26 tháng 2 năm 2003, khi ông đảm nhận vai trò là khách mời.[27] Trong nhiều lần xuất hiện của ông trong các show, Willis luôn trao chút vẻ bề ngoài hài hước đối với khán giả, ví dụ như ông đã mặc bộ đồ màu cam chói lóa để tỏ lòng trân trọng đối với khán giả Central Park, với một bên của khuôn mặt được hóa trang như trúng đạn sau cú bắn của Harry Whittington, trong cố gắng phá kỉ lục (nhái lại David Blaine) ở dưới mặt nước trong 20 phút.

Ngày 12 tháng 4 năm 2007, ông lại xuất hiện, lúc này thì đội bộ tóc giả của Sanjaya Malakar.[28] Thời gian biến mất gần đây nhất của ông là vào ngày 25 tháng 6 năm 2007, khi quay trở lại thì ông đã xuất hiện trong một chiếc khăn nhỏ quấn nửa đầu để phụ họa hài hước cho bộ phim tài liệu hư cấu của ông mang tên An Unappealing Hunch (một sự nhái hàng của An Inconvenient Truth).[29] Willis cũng từng đóng quảng cáo truyền hình cho Subaru Legacy của Nhật.[30]

Willis đã xuất hiện trong bốn bộ phim với Samuel L. Jackson (Loaded Weapon 1 của National Lampoon, Pulp Fiction, Die Hard with a VengeanceUnbreakable) và cả hai diễn viên dự kiến sẽ đóng chung trong Black Walter Transmit, trước khi giải tán. Willis cũng từng tham gia trong phim Hostage cùng con gái Rumer Willis, vào năm 2005. Vào năm 2007, ông xuất hiện trong bộ giật gân Người lạ hoàn hảo, đối diện với Halle Berry, và trong bộ phim Alpha Dog, lại đối diện với Sharon Stone, và đánh dấu sự trở lại của ông với vai diễn John McClane trong Live Free or Die Hard. Và sau đó, ông xuất hiện trong What Just HappenedSurrogates, dựa theo cuốn truyện hài cùng tên.[31]

Willis đã được dự kiến thủ vai một đại tướng Mỹ William R. Peers trong tác phẩm Pinkville của đạo diễn Oliver Stone, một bộ phim nói về vụ thảm sát Mỹ Lai năm 1968.[32] Tuy nhiên, bởi vị cuộc xung đột trong giới biên kịch Mỹ năm 2007, bộ phim đã bị đình công. Willis xuất hiện trong Blues Traveler năm 2008 album North Hollywood Shootout, mang đến một màng độc diễn với bản "Free Willis (tưởng nhớ người chú Bob). Vào đầu năm 2009, ông xuất hiện trong chiến dịch quảng cáo cho việc đổi tên công ty bảo hiểm Norwich Union thành Aviva.[33]

Thập niên 2010[sửa | sửa mã nguồn]

Willis đóng chung với Tracy Morgan trong bộ phim hài Cop Out do Kevin Smith đạo diễn, nói về hai cảnh sát cũng là thám tử điều tra về tội phạm đánh cắp thẻ bóng chày.[34] Bộ phim được công chiếu vào tháng 2 năm 2010. Và Willis cũng xuất hiện trở lại trong video ca nhạc mang tên "Stylo" của Gorillaz.[35] Cũng vào năm 2010, ông cũng xuất hiện trong một vai khách mời cùng với những người đồng sở hữu Planet Hollywood cũ và các ngôi sao hành động những năm 80 như Sylvester StallonArnold Schwarzenegger trong phim Biệt đội đánh thuê. Willis thủ vai Church, một người hói đầu. Đây cũng là lần đầu tiên những ngôi sao hành động tên tuổi cùng xuất hiện trong một tác phẩm. Mặc dù cảnh quay vô cùng ngắn, nhưng cũng rất dễ để đoán được ngay các cảnh trong phim. Bộ ba phim được lấy cảnh tại một ngôi chùa bỏ hoang vào ngày 24 tháng 10 năm 2009.[36] Willis đóng vai Frank Moses trong bộ phim RED, dựa theo cuốn truyện tranh mini sê-ri cùng tên. Bộ phim được công chiếu vào ngày 15 tháng 10 năm 2010.[37]

Willis tại lễ công chiếu phim Live Free or Die Hard vào tháng 6 năm 2007.

Willis đóng chung với Bill Murray, Edward NortonFrances McDormand trong bộ phim Moonrise Kingdom (2012). Bộ phim lấy bối cảnh tại Rhode Island dưới sự đạo diễn của Wes Anderson vào năm 2011.[38] Willis trở lại với The Expendables 2 (2012).[39] Ông xuất hiện chung với Joseph Gordon-Levitt trong bộ phim hành động khoa học viễn tưởng mang tên Sát thủ xuyên không (2012), thủ vai Gordon-Levitt lúc già, Joe.

Willis hợp tác cùng 50 Cent trong bộ phim do David Barrett đạo diễn mang tên Fire with Fire, đối diện với Josh DuhamelRosario Dawson, nói về một người lính cứu hỏa liều mình giải cứu người tình của anh ấy.[40] Willis cũng tham gia vào Vince VaughnCatherine Zeta-Jones trong Lay the Favorite, đạo diễn bởi Stephen Frears, nói về một nhân viên phục vũ cóoc-tai trở thành 1 tay cờ bạc chuyên nghiệp.[41] Hai bộ phim được phát hành bởi Lionsgate Entertainment.

Và sau đó, Willis lại trở lại với vai diễn để đời của mình là McClane trong phần năm của bộ phim mang tên A Good Day to Die Hard, được công chiếu vào ngày 14 tháng 2 năm 2013. Trong đoạn phỏng vấn, Willis có nói "Có một dấu ấn vô cùng lớn trong tim tôi đối với Die Hard… đó là khởi đầu của mọi vai diễn cùng hình ảnh trong suốt hơn 25 năm qua và vẫn trở lại với hình ảnh có chút hài hước bên trong. Nó đặc ra một thử thách rất nặng đối với tôi khi phải thực hiện lại một bộ phim và hoàn thành nó bằng chính hình ảnh của tôi, hình ảnh trong Die Hard bao nhiêu năm qua. Tôi đã luôn cố thực hiện nó một hàng giờ.

Hình ảnh nhân vật Lex Luthor trong bộ phim Injustice: Gods Among Us được thực hiện bởi Mark Rolston với hình tượng nhân vật dựa theo vai diễn của Willis trong Die Hard. Vào ngàu 12 tháng 10 năm 2013, Willis tổ chức Saturday Night Live với Katty Live trong vai trò khách mời.

Bruce Willis tại San Diego Comic-Con 2018.

Willis thủ vai chính trong bộ phim chuyển thể từ trò chơi điện tử Kane & Lynch: Dead Men.

Năm 2015, Willis xuất hiện lần đầu trên sân khấu Broadway trong bộ phim chuyển thể từ tiểu thuyết Misery của Stephen Gold cùng với Laurie Metcalf tại Nhà hát Broadhurst.

Những bộ phim có sự xuất hiện của Willis đã thu về từ 2,64 tỷ đô la đến 3,05 tỷ đô la tại các phòng vé Bắc Mỹ, giúp ông trở thành diễn viên có doanh thu cao thứ tám trong một vai chính và cao thứ 12 bao gồm cả vai phụ. Ông là người hai lần chiến thắng tại giải Emmy, hai lần giành giải Quả cầu vàng và đề cử giải Sao Thổ bốn lần.

Hoạt động kinh doanh[sửa | sửa mã nguồn]

Đời sống kinh doanh Willis có tài sản tại Los Angeles và tại Penns Grove, New Jersey, cho thuê những căn hộ ở Trump Tower, Trump Place và cả ở New York, có một căn nhà ở Malibu, California, trại chăn nuôi ở Montana, một căn hộ bãi biển tại Parrot Cay ở Turks và Caicos, và sở hữu nhiều tài sản khác tại Sun Valley, Idaho.

Trong năm 2000, Willis và cộng sự làm ăn của ông là Arnold Rifkon, bắt đầu công ty sản xuất điện ảnh gọi là Cheyenne Enterprises. Ông cũng có kinh nhỏ nhỏ tại Hailey, Idaho, bao gồm quá bar The Mint và rạp chiếu The Liberty và cũng là một trong những nhà sáng lập Planet Hollywood, với các diễn viên như Arnold Schwarzenegger và Sylvester Stallone. Vào năm 2009, Willis ký hợp đồng và trở thành đại diện cho nhãn hàng Belvedere SA’s Sobieski Vodka với thỏa thuận sở hữu 3,3% cổ phần trong công ty.

Đời sống cá nhân[sửa | sửa mã nguồn]

Willis tại buổi lễ ra mắt phim Over the Hedge tại Đức ngày 28 tháng 6 năm 2006.

Những hình mẫu diễn xuất của Willis là Gary Cooper, Robert De Niro, Steve McQueenJohn Wayne.[42] Willis là người thuận tay trái.[43]

Mối quan hệ và con cái[sửa | sửa mã nguồn]

Tại buổi lễ ra mắt bộ phim Stakeout, Willis đã gặp nữ diễn viên Demi Moore. Họ kết hôn vào ngày 21 tháng 11 năm 1987 và có ba người con gái: Rumer Willis (sinh ngày 16 tháng 8 năm 1994),[44] Scout LaRue (sinh ngày 20 tháng 7 năm 1991)[45] và Tallulah Belle Willis (sinh ngày 3 tháng 2 năm 1994)[46] Họ tuyên bố ly thân vào ngày 24 tháng 6 năm 1998,[47] trước khi vợ chồng ông ly hôn vào ngày 18 tháng 10 năm 2000.[48] Ông cho biết diễn viên Will Smith đã giúp ông vượt qua khó khăn.[3][15] Cặp đôi không công khai lý do chia tay. Đối với vấn đề này, Willes phát biểu "Tôi cảm thấy mình không đủ sức để trở thành một người chồng, người cha xứng đáng với gia đình". Sau khi chia tay, tin đồn vẫn còn dai dẳng đã khiến cặp đôi có ý định quay trở lại, cho đến khi Demi Moore kết hôn với Ashton Kutcher. Willis vẫn giữ quan hệ thân thiết với cặp đôi Moore và Kutcher, thậm chí còn đến dự cả lễ cưới của họ.

Willis đính hôn với nữ diễn viên Booke Burns cho đến khi kết thúc vào năm 2004 sau 10 tháng chung sống. Ông đã cưới người mẫu Emma Heming tại Turks và Caisos và ngày 21 tháng 3 năm 2009; khác mời có cả ba người con gái của ông, Demi Moore và Ashton Kutcher. Họ kết hôn mà không có sự ràng buộc bởi pháp luật, về thế nên lễ cưới được tổ chức trở lại một cách bình thường tại Beverly Hills 6 ngày sau đó. Cặp đôi có với nhau hai con gái: Mabel Ray Willis (sinh ngày 1 tháng 4 năm 2012) và Evelyn Peen Willis (sinh ngày 5 tháng 5 năm 2014).

Quan điểm tôn giáo[sửa | sửa mã nguồn]

Willis theo đạo Tin lành Lutheran (tên chính xác là Lutheran Church-Missouri Synod), nhưng không theo được lâu. Trong lần phỏng vấn với tạp chí George tháng 7 năm 1998, ông có phát biểu: "Có một điểm chung trong sự hiện hữu của tôn giáo, theo tôi quan niệm, đó chính là các hình thức khác nhau của cái chết... Chúng rất quan trọng khi chúng ta không hề hiểu tại sao mặt trời lại chuyển động, tại sao thời tiết lại thay đổi, tại sao lại có bão và núi lửa lại phun trào… Tôn giáo trong thời kì hiện đại là sự chấm hết của những quan niệm cổ hủ, xa xưa. Nhưng lại có thể đưa ra lời giải thích cho Kinh thánh một cách hoàn toàn hợp lý. Thật đúng là vậy! Tôi lựa chọn không tin vào gì cả, như bạ cũng đã biết đó chính là những gì tạo nên một nước Mỹ dễ chịu.

Quan điểm chính trị[sửa | sửa mã nguồn]

Vào năm 1988, ông và vợ ông là Demi Moore mở chiến dịch vận động tranh cử cho thống đốc bang Massachusetts là Micheal Dukakis vào chức vụ tổng thống. Bốn năm sau, ông ủng hộ cho tổng thống George H. W. Bush và ông là một nhà phê bình thẳng thắng Bill Clinton. Ngoài ra, vào năm 1996, ông đồng tình với Clinton đảng cộng hòa đồi đầu với Bob Dole, bởi vì lý do Dole đã lên tiếng chỉ trích bộ phim do Demi Moore thủ vai mang tên Striptease. Willis được mời tham gia cuộc nói trò chuyện chính trị đảng Cộng hòa năm 2000, và mở chiến dịch ủng hộ Gerge W. Bush năm đó. Ông không hề có sự đóng góp hay ý kiến tán đồng nào trong cuộc vận động tranh cử tổng thống năm 2008. Trong vài cuộc phỏng vấn vào tháng 6 năm 2006, ông nói Hoa Kỳ nên có hành động can thiệp mạnh hơn đối với Colombia, để kết thúc tình trạng buôn bán hàng cấm, thuốc lậu. Trong vài cuộc phỏng vấn, ông nói sẽ tài trợ nhiều khoản tiền tài trợ lớn vào giáo dục cũng như văn phòng cảnh sát. Ông còn nói là rất thật vọng đối với chính sách chăm sóc ưu đãi người Mỹ bản địa của chính phủ Hoa Kỳ. Willis cũng có phát biểu rằng ông ủng hộ cho việc sử dụng súng theo pháp luật, "mọi người sinh ra đều có đôi tay của mình, nếu ai cướp súng khỏi người chủ sở hữu hợp pháp của nó, thì người có súng trong tay chính là kẻ xấu".

Vào tháng 2 năm 2006, Willis có xuất hiện tại Manhattan và trao đổi về bộ phim 16 Blocks với phóng viên. Một phóng viên đã cố hỏi ông về quan điểm của mình đối với chủ phủ hiện thời, nhưng đã bị ông ngắt lời bằng một cay xen ngang: "Tôi đã phát mệt với những câu hỏi vớ vẩn đại loại như thế này rồi. Tôi là một người ủng hộ đảng Cộng hòa, trong chừng mực nào đó tôi muốn một chính phủ nhỏ hơn, tôi muốn có ít sự can thiệp của chính phủ hơn. Tôi muốn họ thôi nhúng tay vào tiên bạc tài sản của mình và các bạn và khoảng thuế mà chúng ta phải trả là 50%...mỗi năm. Tôi muốn họ phải có trách nhiệm về tài chính và đưa tất cả những phần tử vận động hành lang khốn kiếp này ra khỏi Washington. Hãy làm như thế và tôi sẽ nói tôi là người ủng hộ đảng Cộng hòa… Tôi căm ghét chính phủ, OK? Tôi là người phi chính trị. Viết những điều đó ra. Tôi không phải là người đảng Cộng hòa.

Danh tánh Willis được đề cập trên phần quảng cáo của tờ Los Angeles Times vào ngày 17 tháng 8 năm 2006, nó đã lên án HamasHezbollah và ủng hộ Israel trong cuộc chiến Israel-Liban năm 2006.

Sở thích quân đội[sửa | sửa mã nguồn]

Qua sự nghiệp điện ảnh của mình, Willis đã phần nào khắc họa nên chân dung của những người lính trong các bộ phim, ví dụ như The Siege, Hart’s War, Tear of the Sun, Grindhouse và G. I. Goe: Retaliation. Lớn lên trong một gia đình có truyền thống quân đội, Willis công khai bán bánh qui Girl Scout cho lực lượng quân đội Hoa Kỳ. Vào năm 2002, người con gái thứ hai của Willis, Tallulah, đã đề nghị ông cung cấp bánh qui Girl Scout cho lính. Willis đã cung cấp 12 ngàn hộp bánh qui, và nó đã được phân phát cho lính thủy USS John F. Kennedy và một số trạm lính khác ở khắp khu vực Trung Đông thời gian đó.

Vào năm 2003, Willis đến thăm Iraq trong tour USO, hát và trình diễn cho quân lính cùng ban nhạc của ông là The Accelerators. Willis nhìn nhận rằng tham gia vào quân đội sẽ giúp trong việc chiến đấu ở chiến tranh Iraq thứ 2, nhưng độ tuổi của ông không còn cho phép nữa. Người ta tin rằng ông đã hiến 1 triệu đô la tài trợ cho những người không trực tiếp tác chiến, những người ra khỏi những tổ chức khủng bố như Osama bin Laden, Ayman al-Zawahiri hay Abu Musad al-Zarqawi; vào tháng 6 năm 2007 kết quả đưa ra của Vanity Fair (dịch tạm là HỘI CHỢ PHÙ HOA), tuy nhiên, ông đã làm sáng tỏ sự việc và cho nó chưa hoàn toàn đúng. Willis cũng đã phê bình, chỉ trích giới truyền thông về những thông tin cũng như những thống kê sai lệch về chiến tranh, sự thật về chiến tranh đã bị bóp nén quá nhiều.

"Tôi đi đến Iraq bởi về những gì tôi thấy ở đó khi thành phần chính trong quân lính toàn là trẻ em-những người tình nguyện ở Iraq; những người có quyền lực thì lại quay lưng đi, những sự giúp đỡ về y tế, về nước cũng quay lưng đi và bạn hoàn toàn không hề nghe gì về những thông tin đó. Tất cả những gì bạn nghe được chỉ là "Một con số X nào đó của những người vừa bị giết hôm nay", tôi nghĩ đó là một tác hại to lớn, cứ như là chúng ta đang ngầm quên đi và không để ý gì đến những thế hệ trẻ em và phụ nữ đang chiến đấu ngoài kia để giúp đỡ cho đất nước này."

Willis phát biểu vào năm 2005, ông muốn "làm nên một tác phẩm điện ảnh về chiến trạnh thật sự vĩ đại nói về những người lính Mỹ đang biểu trưng cho sức mạnh chiến đấu bảo vệ tự do và nền dân chủ. Bộ phim nhận được sự theo dõi của những thành viên trong Deuce Four, the 1st Battanlion, 24th Infantry, những người có vai trò to lớn trong Mosul và luôn được nhận những huy chương quý báu về nó. Bộ phim đựa dựa trên câu chuyện được viết bởi blogger Michael Yon, một người lính đặc nhiệm Mỹ, người đã gửi về những thông tin thật sự về tình hình xảy ra tại Deuce Four. Willis mô tả cốt truyện của bộ phim như sau "Đây là những con người mà những gì họ làm chính là để đòi hỏi về số tiền rất nhỏ trong khi bảo vệ và chiến đấu cho cái mà họ coi là TỰ DO"

Danh sách phim[sửa | sửa mã nguồn]

Điện ảnh[sửa | sửa mã nguồn]

NămTên phimVai diễnGhi chú
1980First Deadly Sin, TheThe First Deadly SinMan Entering DinerKhông được ghi danh[cần dẫn nguồn]
1982Verdict, TheThe VerdictKhông được ghi danh[cần dẫn nguồn]
1987Blind DateWalter Davis
1988SunsetTom MixĐồng sản xuất
1988Die HardJohn McClane
1989In CountryEmmett SmithĐề cử – Giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên điện ảnh phụ xuất sắc nhất
1989Look Who's TalkingMikey (lồng tiếng)
1989That's AdequateHimselfMockumentary
1990Die Hard 2John McClane
1990Look Who's Talking TooMikey (lồng tiếng)
1990Bonfire of the Vanities, TheThe Bonfire of the VanitiesPeter Fallow
1991Mortal ThoughtsJames Urbanski
1991Hudson HawkEddie "Hudson Hawk" HawkinsĐồng biên kịch
Giải Mâm xôi vàng cho Kịch bản tồi nhất
Đề cử – Giải Mâm xôi vàng cho diễn viên nam chính tồi nhất
1991Billy BathgateBo Weinberg
1991Last Boy Scout, TheThe Last Boy ScoutJoseph Cornelius "Joe" HallenbeckĐề cử – MTV Movie Award for Best On-Screen Duo (shared with Damon Wayans)
1992Player, TheThe PlayerChính anhKhách mời
1992Death Becomes HerDr. Ernest MenvilleĐề cử – Giải Phim hài Mỹ cho nam diễn viên chính điện ảnh xuất sắc nhất
Đề cử – Giải Sao Thổ cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất
1993Loaded Weapon 1John McClaneUncredited cameo[cần dẫn nguồn]
1993Striking DistanceTom "Tommy" Hardy
1994Color of NightDr. Bill CapaStinkers Bad Movie Award for Worst Actor
Đề cử – Giải Mâm xôi vàng cho diễn viên nam chính tồi nhất
1994NorthNarratorStinkers Bad Movie Award cho nam diễn viên tệ nhất
Đề cử – Giải Mâm xôi vàng cho diễn viên nam chính tồi nhất
1994Pulp FictionButch CoolidgeĐề cử – Giải Chlotrudis cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất
1994Nobody's FoolCarl RoebuckĐề cử – Giải Chlotrudis cho nam diễn viên phụ xuất sắc nhất
1995Die Hard with a VengeanceJohn McClane
1995Four RoomsLeoUncredited
Segment: "The Man from Hollywood"
199512 con khỉJames ColeĐề cử – Giải Sao Thổ cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất
1996Last Man StandingJohn Smith
1996Beavis and Butt-Head Do AmericaMuddy Grimes (voice)
1997Fifth Element, TheThe Fifth ElementKorben DallasĐề cử – Online Film & Television Association Award cho nam diễn viên phim khoa học viễn tưởng/hành động/kinh dị xuất sắc nhất
1997Jackal, TheThe JackalThe JackalĐề cử – Blockbuster Entertainment Award for Favorite Actor - Suspense
1998Mercury RisingArt JeffriesGolden Raspberry Award for Worst Actor
1998ArmageddonHarry S. StamperBlockbuster Entertainment Award for Favorite Actor – Sci-Fi
Golden Raspberry Award for Worst Actor
Đề cử – Giải Sao Thổ cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất
1998The SiegeMajor General William DevereauxBlockbuster Entertainment Award for Favorite Supporting Actor – Suspense
Golden Raspberry Award for Worst Actor
1999Breakfast of ChampionsDwayne Hoover
1999Franky Goes to HollywoodHimselfShort film
1999Sixth Sense, TheThe Sixth SenseDr. Malcolm CroweBlockbuster Entertainment Award for Favorite Actor - Suspense
People's Choice Award for Favorite Motion Picture Star in a Drama
Đề cử – MTV Movie Award for Best Male Performance
Đề cử – MTV Movie Award for Best On-Screen Duo (chia sẻ với Haley Joel Osment)
Đề cử – Giải Sao Thổ cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất
1999Story of Us, TheThe Story of UsBen Jordan
2000Whole Nine Yards, TheThe Whole Nine YardsJames Stefan "Jimmy the Tulip" Tudeski
2000Disney's The KidRussell Morley "Russ" Duritz
2000UnbreakableDavid DunnĐề cử – Blockbuster Entertainment Award for Favorite Actor – Suspense
2001BanditsJoe Blake
2002Hart's WarCol. William A. McNamara
2002True WestLeeFilmed Stage Play
2002Crocodile Hunter: Collision Course, TheThe Crocodile Hunter: Collision CourseNhà sản xuất
2002Grand ChampionMr. Blandford
2003Tears of the SunLieutenant A.K. Waters
2003Rugrats Go WildSpike (voice)Đề cử – Kids' Choice Award for Voice from an Animated Movie[49]
2003Charlie's Angels: Full ThrottleWilliam Rose BaileyUncredited[50]
2004Whole Ten Yards, TheThe Whole Ten YardsJames Stefan "Jimmy the Tulip" Tudeski
2004Ocean's TwelveHimselfCameo
2005HostageJeff TalleyAlso producer
2005Sin CityJohn HartiganĐề cử – Broadcast Film Critics Association Award for Best Cast
Đề cử – Gold Derby Film Award for Best Ensemble Cast
2006Alpha DogSonny Truelove
200616 BlocksJack MosleyAlso producer
2006Fast Food NationHarry Rydell
2006Lucky Number SlevinMr. Goodkat
2006Hip Hop Project, TheThe Hip Hop ProjectHimselfDocumentary
Also executive producer
2006Over the HedgeRJ (lồng tiếng)Đề cử – Kids' Choice Award for Voice from an Animated Movie[51]
2006Hammy's Boomerang AdventureRJ (lồng tiếng)Phim ngắn
2007Astronaut Farmer, TheThe Astronaut FarmerColonel Doug MastersonUncredited[52]
2007Perfect StrangerHarrison Hill
2007Grindhouse: Planet TerrorLt. Muldoon
2007Nancy DrewHimselfUncredited cameo[53]
2007Live Free or Die HardJohn McClaneĐề cử – National Movie Award for Best Performance by a Male
Đề cử – People's Choice Award for Favorite Male Action Star
Đề cử – People's Choice Award for Favorite Male Movie Star
2008What Just HappenedChính ông
2008Assassination of a High School PresidentPrincipal Kirkpatrick
2009SurrogatesAgent Tom Greer
2010Cop OutJimmy Monroe
2010Biệt đội đánh thuêMr. ChurchUncredited[cần dẫn nguồn]
2010RedFrancis "Frank" Moses
2011Set UpJack Biggs
2011Catch.44Mel
2011The Black MambaMr. SuavePhim ngắn
2012Moonrise KingdomThuyền trưởng Duffy SharpCentral Ohio Film Critics Association Award for Best Ensemble
Phoenix Film Critics Society Award for Best Ensemble Acting
Đề cử – Boston Society of Film Critics Award for Best Ensemble Cast (2nd place)
Đề cử – Broadcast Film Critics Association Award for Best Cast
Đề cử – Gotham Independent Film Award for Best Ensemble Performance
Đề cử – Independent Spirit Award for Best Supporting Male
Đề cử – Southeastern Film Critics Association Award for Best Ensemble(2nd place)
Đề cử – St. Louis Film Critics Association Award for Best Supporting Actor
2012Lay the FavoriteDink Heimowitz
2012Biệt đội đánh thuê 2Mr. Church
2012Cold Light of Day, TheThe Cold Light of DayMartin
2012Sát thủ xuyên khôngOlder Joe
2012Fire with FireMike Cella
2013A Good Day to Die HardJohn McClaneAlso executive producer
2013G.I. Joe: RetaliationGeneral Joseph Colton / G.I. Joe
2013Red 2Francis "Frank" Moses
2014Sin City: A Dame to Kill ForJohn Hartigan
2014Prince, TheThe PrinceOmar
2015ViceJulian Michaels
2015Rock the KasbahBombay Brian[54]
2015ExtractionLeonard Turner
2016Precious CargoEddie Pilosa
2016MaraudersJeffrey Hubert
2016SplitDavid DunnKhông được ghi danh
2016The BombingJack[55]
2017Once Upon a Time in VeniceSteve
2017First Kill
2017Death WishPaul Kersey
2017Acts of Violence'Thám tử James Avery
2018Air StrikeJack
2018ReprisalJames
2019GlassDavid Dunn

Danh sách đĩa nhạc[sửa | sửa mã nguồn]

Album đơn:

Album biên tập/xuất hiện khách mời:

Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]

  1. ^ a b c d “Bruce Willis”. Biography.com (FYI / A&E Networks). Lưu trữ bản gốc ngày 20 tháng 11 năm 2015. Truy cập ngày 16 tháng 2 năm 2016.
  2. ^ a b “Surprise German visit from Willis”. BBC News. ngày 8 tháng 8 năm 2005. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009. His mother Marlene was born in the nearby town of Kassel.
  3. ^ a b c d Lipworth, Elaine (ngày 16 tháng 6 năm 2007). “Die Another Day: Bruce Willis”. Daily Mail. UK. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  4. ^ “Monitor”. Entertainment Weekly (1251): 25. ngày 22 tháng 3 năm 2013.
  5. ^ Archerd, Army (ngày 11 tháng 12 năm 2003). “Inside Move: Flu KOs Smart Set yule bash”. Variety. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2011.
  6. ^ “Robert Willis Obituary”. Variety. ngày 1 tháng 7 năm 2001. Truy cập ngày 23 tháng 6 năm 2011.
  7. ^ a b c d e f g Stated on Inside the Actors Studio, 2001
  8. ^ Petersen, Melody (ngày 9 tháng 5 năm 1997). “Bruce Willis Drops Project, Leaving Town More Troubled”. The New York Times. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  9. ^ “Bruce Willis: The Uncut Interview” (PDF). Reader's Digest. 2002. Bản gốc (PDF) lưu trữ ngày 25 tháng 3 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  10. ^ “Bruce Willis”. The Daily Show. ngày 26 tháng 6 năm 2007. Comedy Central.
  11. ^ a b Segal, David (ngày 10 tháng 3 năm 2005). “Bruce Willis's Tragic Mask”. The Washington Post. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  12. ^ Curley, Mallory (2010). A Cookie Mueller Encyclopedia. Randy Press. tr. 260.
  13. ^ Bruce Willis trên IMDb
  14. ^ “Yahoo! Movies”. Bruce Willis Biography. Bản gốc lưu trữ ngày 25 tháng 10 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  15. ^ a b “How Bruce Willis Keeps His Cool”. Time. ngày 21 tháng 6 năm 2007. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2009.
  16. ^ Grobel, Lawrence (tháng 11 năm 1988). “Playboy Interview: Bruce Willis”. Playboy. tr. 59–79.
  17. ^ “Bruce Willis: Biography”. People. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 2 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  18. ^ “Top 100 Songs of 1987”. The Eighties Club. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 5 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  19. ^ Billboard vol 108 No. 1 (1/6/1996) p.54.
  20. ^ “Bruce Willis Biography (1955–)”. Filmreference. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  21. ^ “1998 Worldwide Grosses”. Box Office Mojo. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  22. ^ Walk, Gary Eng (ngày 4 tháng 12 năm 1998). "Apocalypse" Now”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 21 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  23. ^ “12 đoạn kết bất ngờ (2)”. Newszing.vn. Bản gốc lưu trữ ngày 30 tháng 3 năm 2017. Truy cập ngày 1 tháng 4 năm 2017.
  24. ^ Bruce Willis Emmy Award Winner. Emmys.com. Truy cập 2012-06-08.
  25. ^ “The 52nd Annual Emmy Awards”. The Los Angeles Times. ngày 11 tháng 9 năm 2000. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 6 năm 2011. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  26. ^ Rohan, Virginia (ngày 28 tháng 6 năm 2004). “Let's Make a Deal”. The Record. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  27. ^ Susman, Gary (ngày 28 tháng 2 năm 2003). “The Eyes Have It”. Entertainment Weekly. Bản gốc lưu trữ ngày 7 tháng 9 năm 2014. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  28. ^ “The Week's Best Celeb Quotes”. People. ngày 17 tháng 8 năm 2007. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  29. ^ “Bruce Willis Wears Mini-Wind Turbine On His Head”. Star Pulse. Bản gốc lưu trữ ngày 13 tháng 2 năm 2009. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  30. ^ “1991 Subaru Legacy Ad”. YouTube. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  31. ^ Fleming, Michael; Tatiana Siegel (ngày 18 tháng 11 năm 2007). “Films halted due to strike”. Variety. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  32. ^ Mayberry, Carly (ngày 13 tháng 11 năm 2007). “The Vine: Pitt targeted for 'Pinkville'. The Hollywood Reporter. Bản gốc lưu trữ ngày 18 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009. Đã định rõ hơn một tham số trong |archiveurl=|archive-url= (trợ giúp)
  33. ^ Dunkley, Jamie (ngày 29 tháng 4 năm 2009). “Aviva lambasted for rebranding costs”. The Daily Telegraph. London. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  34. ^ “Bruce Willis Circling Several New Movies”. Empire. Truy cập ngày 9 tháng 5 năm 2009.
  35. ^ “Bruce Willis takes aim at Gorillaz in Stylo video”. Billboard. Truy cập ngày 2 tháng 3 năm 2009.
  36. ^ Stallone Shot a Scene with Arnold and Bruce Lưu trữ 2009-10-27 tại Wayback Machine News in Film
  37. ^ “Red Begins Principal Photography”. /Film. ngày 18 tháng 1 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 14 tháng 9 năm 2012. Truy cập ngày 18 tháng 1 năm 2010.
  38. ^ “Film starring Bruce Willis to be shot in RI”. The Boston Globe. Providence, R.I. Associated Press. ngày 24 tháng 3 năm 2011. Truy cập ngày 6 tháng 4 năm 2011. Steven Feinberg, executive director for the Rhode Island Film and Television Office, says on-site work on the film, 'Moonrise Kingdom,' is scheduled to begin this spring. Feinberg says the film will be shot in several locations in Rhode Island.
  39. ^ Jason Barr (ngày 29 tháng 8 năm 2010). “Sylvester Stallone Wants Bruce Willis to Play a "Super Villain" in THE EXPENDABLES Sequel”. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 11 năm 2012. Truy cập ngày 28 tháng 4 năm 2017.
  40. ^ Anderton, Ethan (ngày 5 tháng 5 năm 2011). “Bruce Willis and 50 Cent Teaming Up Again to Fight 'Fire with Fire'. Firstshowing.net. Variety. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2011. Now Variety reports that for some reason, the two will team-up again for an indie drama called Fire with Fire.
  41. ^ Bettinger, Brendan (ngày 5 tháng 5 năm 2011). “Vince Vaughn Joins Rebecca Hall, Bruce Willis, and Catherine Zeta-Jones in LAY THE FAVORITE”. Collider.com. Truy cập ngày 6 tháng 5 năm 2011. Vince Vaughn will join Rebecca Hall, Bruce Willis, and Catherine Zeta-Jones in the gambling drama Lay the Favorite.
  42. ^ “Bruce Willis Biography”. biography.com. Bản gốc lưu trữ ngày 3 tháng 6 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 6 năm 2010.
  43. ^ Hennen, Emily (ngày 31 tháng 12 năm 2013). “59 Famous People Who Are Left-Handed”. BuzzFeed. Truy cập ngày 19 tháng 10 năm 2015.
  44. ^ “Baby Girl Is a Rumer”. Gainesville Sun. ngày 18 tháng 8 năm 1988.
  45. ^ “Demi Moore Has Her Baby”. Philadelphia Inquirer. ngày 22 tháng 7 năm 1991.
  46. ^ “It's Another Girl for Demi, Bruce”. The Vindicator. Youngstown, Ohio. ngày 5 tháng 2 năm 1994.
  47. ^ Gliatto, Tom (ngày 13 tháng 7 năm 1998). “Dreams Die Hard”. People. Lưu trữ bản gốc ngày 8 tháng 9 năm 2015. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2012.
  48. ^ “That's a Wrap”. People. ngày 6 tháng 11 năm 2000. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 1 năm 2016. Truy cập ngày 26 tháng 9 năm 2012.
  49. ^ “Nickelodeon Kids' Choice Awards Press site — Kids' Choice Awards 2004”. Nickelodeon. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 7 năm 2008. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015.
  50. ^ “Charlie's Angels: Full Throttle 2003. amazon.co.uk. Truy cập ngày 10 tháng 11 năm 2015. Watch out for several cameos from the likes of Bruce Willis,…
  51. ^ Gervich, Chad (ngày 29 tháng 3 năm 2007). “Kids' Choice Awards grows up”. Variety. Truy cập ngày 28 tháng 9 năm 2014.
  52. ^ “The Movie: The Astronaut Farmer”. visimag.com. Bản gốc lưu trữ ngày 20 tháng 9 năm 2020. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2015.
  53. ^ “Nancy Drew”. CinemaBlend. Truy cập ngày 25 tháng 8 năm 2015.
  54. ^ “All Time Box Office — Worst Wide Openings (1982 – Present). Box Office Mojo. Truy cập ngày 14 tháng 11 năm 2015.
  55. ^ James Rainey (ngày 3 tháng 6 năm 2015). “Bruce Willis to Star in Chinese-Language Epic 'The Bombing'. variety.com. Truy cập ngày 8 tháng 6 năm 2015.

Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]

Wiki - Keonhacai copa chuyên cung cấp kiến thức thể thao, keonhacai tỷ lệ kèo, bóng đá, khoa học, kiến thức hằng ngày được chúng tôi cập nhật mỗi ngày mà bạn có thể tìm kiếm tại đây có nguồn bài viết: https://vi.wikipedia.org/wiki/Bruce_Willis